Tục bó chân của những thiếu nữ người Hoa xưa “du nhập” vào Sài Gòn – Chợ Lớn

Ngày xưa, người ta thường có quan niệm rằng chân càng bé thì càng đẹp, chính vì điều này mà xuất hiện tục bó chân. 

Tục bó chân phụ nữ của người Tàu thời xưa nhằm để tạo dáng đẹp, tục này thường chỉ xảy ra trong những gia đình giàu có và nắm quyền cao chức trọng. Nhiều người cho rằng khi bó chân sẽ làm cho đôi bàn chân nhỏ lại, lúc di chuyển phải cố giữ thăng bằng vì vậy kết hợp với trọng lượng cơ thể sẽ khiến tướng đi lắc lư, chao đảo cộng thêm trang phục đặc biệt của họ trong mắt người người đàn ông được cho là đẹp và uyển chuyển như đang lướt trên mặt nước.

Dần dần, tục bó chân này lan rộng ra khắp nơi ở Trung Hoa, đến nổi nếu một người con gái không có bàn chân bó sẽ bị khinh thường. Đối với con gái nhà quyền quý nếu không bó chân thì chỉ có thể lấy được chồng kém đẳng cấp hơn, còn về phần những cô gái nghèo thì dễ bị bán làm nô lệ. Ngoài ra, người xưa còn tin rằng bó chân là một trong những giải pháp để gắn kết người phụ nữ với gia đình. Nguyên nhân là bởi vì khi bàn chân bị bó chặt, người phụ nữ sẽ hạn chế di chuyển hơn từ đó sẽ dồn hết tâm trí ở nhà chăm sóc cho chồng con một cách trọn vẹn nhất.

Tập tục bó chân chỉ áp dụng cho phụ nữ, nó được tồn tại ở Trung Hoa trong khoảng hàng nghìn năm về trước, đi qua nhiều triều đại phong kiến, ngày nay tập tục này đã bị xóa bỏ. Tục bó chân đã xuất hiện vào thời nhà Tống, nhưng đến thời nhà Thanh thì tập tục này mới được phổ biến rộng rãi. Có rất nhiều câu chuyện kể về sự xuất hiện của tục bó chân, nhưng câu chuyện về Triệu Phi Yến, một cung phi của Hán Thành Đế lúc bấy giờ là một trong những câu chuyện được nhắc đến nhiều nhất.

Khi nhảy múa, nàng đã cuốn những miếng vải lụa quanh bàn chân của mình. Hán Đế Thành vì rất ấn tượng với hình ảnh của Triệu Phi Yến lúc nhảy múa trên đôi chân được bó gọn nên gọi nó là “Kim Liên Tam Thốn” (Gót Sen Ba Tấc) và ra lệnh cho những cung phi khác trong triều cũng bắt chước theo.

Một câu chuyện khác cũng được nhắc đến trong các tài liệu không chính thức, nói về nàng Giáng Phi sống ở thời Nam Bắc Triều. Mặc dù khác nhau về tên nhân vật nhưng các câu chuyện trên đều có một điểm chung với nhau là tập tục bó chân này được khởi nguồn trong tầng lớp thượng lưu. Về sau, bó chân đã trở nên phổ biến ở phái nữ thuộc tất cả các tầng lớp khác nhau trong xã hội và nó dần trở thành một tập tục của người Trung Hoa.

Để có được đôi chân hoàn hảo, quá trình bó chân sẽ bắt đầu khi bé gái từ 2 đến 5 tuổi. Người mẹ hoặc người bà trong gia đình sẽ bắt đầu bó chân cho con gái hoặc cháu gái của họ trước khi khung xương chân của đứa trẻ phát triển hoàn chỉnh. Thường thì thời điểm thích hợp để thực hiện việc bó chân là vào mùa đông, vì lúc này chân trẻ sẽ bị tê lạnh nên cảm giác đau đớn sẽ giảm bớt đi.

Khâu chuẩn bị đầu tiên là ngâm chân trong nước ấm có chứa lá dược thảo và máu động vật để làm mềm bàn chân. Tiếp theo tất cả móng chân sẽ được cắt càng sâu càng tốt để tránh sự tăng trưởng và nhiễm trùng sau đó. Để các cô gái giữ được sự bình tĩnh và thả lỏng tinh thần trước khi thực hiện bước tiếp theo, bàn chân của họ sẽ được xoa bóp nhẹ nhàng. Sau đó các ngón chân sẽ được cuộn tròn dưới bàn chân bằng cách ấn mạnh. Từng ngón một bị bẻ gãy và cuốn gọn vào trong những dải băng ướt bằng lụa hoặc cotton dài khoảng 3m và rộng 5cm đã được chuẩn bị sẵn, đem đi ngâm vào hỗn hợp dược thảo và máu động vật giống như lúc ngâm chân. Người thực hiện bó chân sẽ nén thật chặt dải băng đến cạn nước, kéo giật mạnh về phía gót chân cho đến khi thành hình dạng “gót sen” như mong muốn. Để việc bó chân trở nên đơn giản hơn, đôi khi người ta sẽ tạo ra những vết cắt thật sâu ở lòng bàn chân.

Quy trình này sẽ được lặp đi lặp lại 2 ngày một lần và kéo dài trong 2 năm. Sau 2 năm, bàn chân “gót sen” sẽ giữ nguyên được hình dạng đến suốt cuộc đời về sau. Mỗi lần bó lại, dải băng sẽ được quấn chặt hơn lần bó trước đó, làm cho quá trình càng đau đớn hơn.

Các chuyên gia cho biết, bệnh phổ biến nhất sau khi bó chân là nhiễm trùng. Dải băng quấn chặt sẽ làm cho quá trình lưu thông máu đến các ngón chân bị tắc nghẽn hoàn toàn hay móng chân sẽ mọc dài ra, đâm vào thịt lâu ngày thịt sẽ bị thối rữa, có vài trường hợp còn rụng cả ngón chân. Đây là căn bệnh có thể dẫn đến tử vong. Nhược điểm tiếp theo của việc bó chân là dẫn đến khả năng di chuyển của người phụ nữ sẽ bị hạn chế, tệ hơn nữa là có nhiều người phải chịu khuyết tật do gãy xương và nhiễm trùng nghiêm trọng. Khi trưởng thành, người bó chân có thể sẽ gặp các vấn đề nguy hiểm về sức khỏe. Đối với những người phụ nữ cao tuổi nguy cơ gãy xương chậu và các xương khác càng lớn hơn, việc đứng lên ngồi xuống cũng sẽ trở nên khó khăn hơn đối với họ.

Đến thế kỷ 20, tục bó chân vẫn còn tồn tại ở Trung Hoa và du nhập vào Sài Gòn – Chợ Lớn. Những người cai trị thuộc tộc Mãn châu triều đại nhà Thanh (từ 1644 đến 1912) không thể chấp nhận được tập tục này nhưng cũng không thể thành công trong việc ngăn chặn nó. Những năm cuối thế kỷ 19, nhiều người đã bắt đầu lên tiếng phản đối về tập tục gây đau đớn và để lại nhiều bệnh nguy hiểm về sau này. Trong số những người phản đối gồm có các học giả cải cách và nhiều nhà truyền giáo phương Tây. Tuy nhiên phải đến tận những năm 1920 thì nhận thức của người dân về tập tục này mới bắt đầu có sự thay đổi.

Năm 1928, Quốc dân đảng người Hán tuyên bố lập ra kế hoạch bãi bỏ tập tục bó chân và yêu cầu tất cả những thiếu nữ dưới 15 tuổi phải để bàn chân phát triển thuận theo tự nhiên, nhưng cũng không thu được kết quả như mong muốn. Đến năm 1949, sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, tục bó chân đã bị nghiêm cấm, cho đến năm 1960 về cơ bản đã chấm dứt hoàn toàn. Đó cũng là khởi đầu để chấm dứt những năm tháng lịch sử đau đớn của người phụ nữ trong hàng nghìn năm qua. Ngày nay, ở đâu đó người ta vẫn còn thấy những dấu vết lịch sử về tập tục này trên bàn chân của một số cụ già.

Tục bó chân của người Trung Hoa vào thời phong kiến dường như đã trở thành một nét đẹp truyền thống của người phụ nữ ở đất nước này. Nhiều người nói rằng, để có được vẻ đẹp hoàn hảo nhất thì họ sẵn sàng hy sinh, nhưng khi nhắc đến tập tục bó chân “gót sen” thì có mấy ai vẫn giữ được quan điểm đó.

 

Viết một bình luận