Phú Nhuận thuở sơ khai giờ trở thành “làng lớn với 72 cảnh chùa”

Phú Nhuận là một quận nội thành thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Tên gọi Phú Nhuận là một mỹ danh, trích từ câu “Phú Nhuận ốc, đức nhuận thân”, có thể tạm hiểu: giàu có làm đẹp nhà cửa, đức độ làm đẹp bản thân.

Cầu Kiệu Phú Nhuận.

Hơn 300 năm trước, từ một gò nổng hoang, thuộc vùng đất cằn cỗi, Phú Nhuận đã không thay đổi địa danh hay địa bàn, hiện đã trở thành một quận nội thành hoàn toàn đô thị hóa. Thôn Phú Nhuận được xem là thành lập từ năm 1698 và được ghi nhận trong danh sách làng xã theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, lúc đó thuộc tổng Bình Trị, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, trấn Phiên An. Dân cư quy tụ về Phú Nhuận, phần lớn thuộc gia đình binh sĩ vào đóng ở trấn Phiên An, hoặc di dân từ Đàng Ngoài vào. Tên “Phú Nhuận” (chữ Hán: 富潤) hàm nghĩa mong muốn thêm giàu có trù phú của những người lưu dân.

Từ năm 1876, gọi là làng Phú Nhuận, thuộc hạt tham biện Sài Gòn, hạt 20, tỉnh Gia Định, rồi tỉnh Tân Bình (1944). Năm 1949, xã Phú Nhuận thuộc quận Tân Bình, tỉnh Gia Định.

Giữa thế kỷ 19, thôn Phú Nhuận phát triển, trở thành làng. Làng Phú Nhuận thuộc huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Làng Phú Nhuận liên tục phát triển trở thành một làng lớn của phủ Tân Bình. Tỉnh Tân Bình tồn tại đến tháng 08 năm 1945 thì giải thể. Làng Phú Nhuận trở lại thuộc tổng Dương Hòa thượng, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định cho đến năm 1956.

Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Theo nghị quyết ngày 9 tháng 5 năm 1975 của Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam thành phố Sài Gòn – Gia Định, xã Phú Nhuận cũ được tách ra khỏi quận Tân Bình để thành lập quận Phú Nhuận trực thuộc thành phố Sài Gòn – Gia Định. Đồng thời, quận Phú Nhuận chuyển 08 ấp cũ thành 08 phường trực thuộc: Đông Nhất, Đông Nhì, Đông Ba, Trung Nhất, Trung Nhì, Tây Nhất, Tây Nhì và Tây Ba.

Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chính thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn – Gia Định). Theo đó, vẫn giữ nguyên quận Phú Nhuận cũ có từ năm 1975. Lúc này, các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận Phú Nhuận có 17 phường, đánh số từ 1 đến 17.

Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận Phú Nhuận trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2020, Phú Nhuận còn 13 phường như hiện nay.

Hai tiếng Phú Nhuận đã được đặt tên cho một vùng đất phát triển từ thôn làng nhưng ít nhiều mang nét “thị” (chợ) để trở thành một quận nội thành trù phú ngày nay của TP.HCM.

Trở về với Phú Nhuận thời xưa, thuở sơ khai

Thuở mới khẩn hoang, có ít đường bộ, phương tiện giao thông chủ yếu của Phú Nhuận là ghe thuyền trên kênh rạch. Cắt ngang góc phía nam Phú Nhuận có một con kênh đào ăn từ rạch Thị Nghè (cạnh cầu Công Lý hiện nay) đến kênh Nhiêu Lộc. Đây là đường giao thông tiện lợi nhất thời đó, nối liền Phú Nhuận với Tân Sơn Nhất. Hiện kênh này đã lấp, chỉ còn tên gọi Xóm Kinh.

Toàn cảnh rạch Thị Nghè-Nhiêu Lộc. Khu vực Phú Nhuận

Ở bản đồ Trần Văn Học vẽ năm 1815, đường giao thông bộ lúc bấy giờ là một con đường lớn đi từ khoảng trung tâm thành Gia Định qua cầu Chợ Mới (tức cầu Xóm Kiệu), xuyên suốt đất Phú Nhuận từ nam chí bắc lên Gò Vấp và từ đó có đường lên Hóc Môn hoặc trở về đất Hộ (Đa Kao). Ngoài ra, trong bản đồ Trần Văn Học còn có khá nhiều lộ nhỏ liên lạc chằng chịt khắp đất Phú Nhuận. Đáng kể hơn cả là con lộ xuyên qua toàn thôn từ đông sang tây (Bình Hòa – Tân Sơn Nhất).

Đại lộ Võ Di Nguy Phú Nhuận, trên cùng là cầu Kiệu
Nay là đường Phan Đình Phùng.

Đường cái quan thứ nhất qua Phú Nhuận nay là đường Hai Bà Trưng – Phan Đình Phùng – Nguyễn Kiệm và đường cái quan thứ hai qua Phú Nhuận nay là Phan Đăng Lưu – Hoàng Văn Thụ.

Đường Chi Lăng (nay là Phan Đăng Lưu)

Ngã tư Phú Nhuận là nơi liên lạc giao thông tấp nập nhất lúc bấy giờ tại vùng đất này.

Ngã tư Phú Nhuận – Bệnh viện Cơ Đốc
Ngã tư Phú Nhuận 1965

Về đường thủy, Phú Nhuận có rạch Thị Nghè đi suốt phía nam và rạch Miễu (mương ông Tiêu) đi suốt phía đông, làm cho đất Phú Nhuận vừa có đường thoát úng vừa có thủy lộ tốt.

Về người Phú Nhuận xưa

Sử có ghi chép sự kiện từ năm 1623 khi chúa Nguyễn cho lập đồn thu thuế ở Sài Gòn (Prei Nokor) và Bến Nghé (Kas Krobei). Nhiều nhà nghiên cứu đoán định rằng hai đồn này phải được lập ở những nơi có cư dân người Việt tới làm ăn trú ngụ chứ không thể đặt ở nơi chỉ có người Khmer sinh sống.

Phú Nhuận nằm giữa một vùng thuận lợi giao thông (sông Bến Nghé, rạch Thị Nghè), có giếng nước ngọt, có nơi cao ráo để trú ngụ, không quá cao để có thể trồng lúa, không quá thấp để có thể làm vườn.

Với những điều kiện thuận lợi như vậy, Phú Nhuận có thể là nơi lưu dân người Việt đến sinh cơ lập nghiệp rất sớm.

Năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh đến lập phủ huyện ở đất Nam bộ, Phú Nhuận mới có vài dặm đất với mấy mươi dân.

Đến năm 1772, sau công cuộc đào kênh, xây dựng thành lũy bảo vệ đất trung tâm của đất Sài Gòn – Bến Nghé, tuy nằm cách biệt nội thành bởi rạch Thị Nghè và tường thành “bán bích”, Phú Nhuận vẫn có đường liên lạc thường xuyên qua Cầu Kiệu và trở nên một vùng “nửa tỉnh nửa quê” làm nơi cư trú rất tốt cho lưu dân khai phá.

Có lẽ từ vị trí địa lý lịch sử đó, Phú Nhuận đã chuyển biến thành một “làng lớn với 72 cảnh chùa”.

Vào khoảng năm 1850, dân chúng bắt đầu quy tụ đông đảo về Phú Nhuận. Phần lớn họ thuộc gia đình binh sĩ vào đóng ở trấn Phiên An, một số khác từ “đàng ngoài” vào chọn nơi đất lành lập nghiệp.

Trong số những người đàng ngoài đến Phú Nhuận, có một huynh trưởng tên Lê Tự Tài (gốc người miền Bắc) vào đất Gia Định rất sớm. Ông Tài kêu gọi dân chúng khẩn hoang lập ấp quanh cầu Kiệu. Khi Phú Nhuận là thôn, ông Tài là thôn trưởng, đến khi Phú Nhuận là xã, ông Tài là xã trưởng, nên gọi là Xã Tài.

Thời bấy giờ, bờ rạch Thị Nghè tấp nập ghe thuyền chở củi, rau quả, đồ gốm của giới “bạn ghe” đến bày bán tại một khu chợ lộ thiên. Khu chợ này ở gần một cái bến gọi là Bến Cừ, ăn ra bờ rạch dưới chân cầu Kiệu bằng một con lạch nhỏ (ngày nay đã lấp, chỉ còn tên gọi).

Ghe chở củi

Ông Xã Tài cho dựng lên một ngôi chợ nhỏ, cột tre mái lá trên phần đất thuộc sở hữu của ông cao ráo gần rạch, gọi là chợ Xã Tài (ngày nay là chợ Phú Nhuận). Từ xưa, chợ Phú Nhuận là trung tâm tấp nập, trù phú, là con tim tạo mạch sống, đo mức độ dân sinh, dân trí của người địa phương qua từng thời điểm.

Quang cảnh chợ Phú Nhuận vào giữa thế kỷ thứ 19 có thể hình dung như trong bài “Phú Cổ Gia Định”: “Trước, phường phố bày hàng, bày hóa – Sau, nhà quê trồng bắp, trồng khoai…”.

Chợ Phú Nhuận, đường Võ Di Nguy Phú Nhuận, nay là Phan Đình Phùng

Rõ ràng đó là vùng “bán thị, bán nông”. Từ những năm đầu mới khai hoang, khu vực quanh cầu Kiệu đến chợ Xã Tài là tụ điểm dân cư đầu tiên ở Phú Nhuận.

Theo thời gian, vùng Phú Nhuận thu hút thêm một số dân lục tỉnh lên và một số người Hoa đến khai khẩn, làm rẫy trồng hoa màu, thuốc lá. Chợ Phú Nhuận phát triển với xu thế bám theo bờ rạch, như một bến nhỏ, phần lớn là nhà vựa vật liệu xây dựng như: tre, lá lợp nhà, cây, ván, cừ.

Rồi nơi đây đón nhận bạn hàng từ Gò Vấp, như một đểm trung chuyển giữa Gò Vấp – Sài Gòn.

Phú Nhuận “làng lớn với 72 cảnh chùa”.

Trên địa bàn Phú Nhuận, từng quy tụ đến 72 chùa ở thế kỉ 19, con số đến ngày hôm này vẫn còn tồn tại. Ngoài ra, quận cũng là nơi được nhiều vị công thần triều Nguyễn, như Phan Tấn Huỳnh, Trương Tấn Bửu, Võ Tánh, Võ Di Nguy chọn làm chỗ an nghỉ. Ngoài ra, nhiều nơi, đã được công nhận di tích lịch sử như:

Di tích Quốc gia Đình Phú Nhuận (18 Mai Văn Ngọc, phường 10)

Đình Phú Nhuận

Di tích Quốc gia lăng Trương Tấn Bửu (41 Nguyễn Thị Huỳnh, phường 8)

Lăng Trương Tấn Bửu

Di tích Quốc gia lăng Võ Di Nguy (19 Cô Giang, phường 2)

Lăng Võ Di Nguy

Di tích lăng Võ Tánh (hẻm 19 Hồ Văn Huê, phường 9)

Di tích lăng Võ Tánh

Di tích mộ Phan Tấn Huỳnh (hẻm 108 Huỳnh Văn Bánh, phường 12)

Di tích mộ Phan Tấn Huỳnh

Di tích Phước Kiến Nghĩa Từ (đường Hoàng Minh Giám, phường 9)

Di tích Phước Kiến Nghĩa Từ

Di tích nhà số 87A Trần Kế Xương (87A Trần Kế Xương, phường 7)

Di tích chùa Từ Vân (62 Phan Xích Long phường 1)

Di tích chùa Từ Vân

Di tích đền Hùng Vương (261/3 Cô Giang, phường 1)

Di tích chùa Phú Long (58 Huỳnh Văn Bánh, phường 15)

Di tích chùa Phú Long

Viết một bình luận