Phong cách thời trang Sành Điệu của người dân miền Nam thập niên 30-40 thế kỷ 20

Trang phục truyền thống của người Việt ở thời kỳ Pháp thuộc từ khá đa dạng. Từ trang phục của tầng lớp quý tộc mang quy chế cung đình đến trang phục dân gian đều có sự khác biệt. Cuối nhà Nguyễn, y phục của người Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi văn hóa áo mũ thời phong kiến. Tuy nhiên, bối cảnh chính trị phức tạp, giai đoạn đầu thế kỷ XX, đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ về văn hóa, xã hội và tư duy của người Việt. Hôm nay chúng ta hãy cùng tìm hiểu, phân tích những chuyển biến của trang phục miền Nam Việt Nam đầu thế kỷ XIX đến giai đoạn thập niên 30 – 50 của thế kỷ XX.

Trang phục của người Việt thập niên 30-40 khá đa dạng

Sự tiếp biến trong cách ăn mặc truyền thống

Theo tác phẩm “Đất Lề Quê Thói”của Nhất Thanh và “Ngàn Năm Áo Mũ” của nhà sử học Trần Quang Đức, trước đây phụ nữ Việt Nam chỉ mặc áo dài ngũ thân với quần lĩnh thâm, lam, đen hoặc màu nhiễu đỏ. Đến đầu thế kỷ XX, chỉ những ai theo Tây mới ăn vận kiểu quần màu trắng kết hợp với áo dài.

Mãi đến những năm 1930, quần trắng được mặc phổ biến với áo dài và áo bà ba. Sau đó, kiểu trang phục này trở thành xu thế “thịnh hành” của các tiểu thư nhà bá hộ Nam Kỳ. Bộ bà ba gấm lụa mặc với quần trắng là trang phục thường ngày của đàn ông lẫn phụ nữ trong gia đình giàu có. Các bạn có thể theo dõi thêm những bộ phim Việt Nam về thời này như Lòng Dạ Đàn Bà, Ải trần gian, Lời sám hối… để hiểu thêm về trang phục dân tộc.

Quần trắng được mặc phổ biến với áo dài và áo bà ba

Trang phục người dân Nam Kỳ thập niên 30-40

Trang phục nữ giới

Đầu thế kỷ XX, phụ nữ Nam Kỳ thường hay sử dụng kiềng cổ bằng bạc làm đồ trang sức. Đến những năm 30 – 50, chuỗi ngọc trai dần thịnh hành, cách phối trang sức cũng đa dạng hơn khi mặc với áo dài ngũ thân. Ngoài ra, các cô nàng cũng có thể chọn áo dài ngũ thân kết hợp với các kiểu vòng tay, chuỗi hạt hay nhẫn đính hột xoàn… “Trend” giày dép không chỉ có guốc mộc, mà còn rất phong phú với các kiểu guốc gỗ gót thon nhỏ, hài thêu, hài cong hoặc giày sandals tân thời. Từ thập niên 30 về sau, trang phục Âu hóa nhanh chóng tại các khu vực thành thị. Ngoài áo bà ba và áo dài, giới bình dân bắt đầu mặc áo sơ mi cổ 2 ve, áo kiểu cổ cánh sen nhìn rất hợp thời, trẻ trung.

Bên cạnh đó, những chiếc mấn của phụ nữ bây giờ mặc cùng áo dài trong lễ cưới, bắt nguồn từ khăn vành dây dành cho hoàng hậu, công chúa hay cung tần trong hoàng tộc. Đến thời vua Bảo Đại, Nam Phương Hoàng Hậu vẫn thường vấn khăn vành gấp nếp hình chữ nhân kết hợp với áo Nhật Bình và áo dài ngũ thân như một loại thường phục.

Nam Phương hoàng hậu mặc áo Nhật Bình

Trang phục nam giới

Vào những năm 1920 – 1930, trang phục của nam giới bắt đầu đón nhận sự cải tiến của trang phục truyền thống. Những chiếc khăn được xếp cố định sẵn, tạo thành những chiếc khăn đóng để giúp nam giới mặc nhanh, cũng tiện dụng hơn.

Trang phục cho nam giới thập niên 30-40

Chịu ảnh hưởng từ những người Pháp

Văn hoá phương Tây có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam từ rất sớm, đặc biệt là khu vực Nam Kỳ. Giai đoạn này, ngành thời trang phát triển mạnh mẽ, Paris của Pháp được mệnh danh là “kinh đô ánh sáng”. Đó chính là nơi cho ra đời hàng loạt những thành tựu và phát kiến mới trong lịch sử thời trang. Khi người Pháp đến Việt Nam, quý tộc phương Tây đã mang theo những khái niệm mới mẻ và táo bạo về ngành thời trang, về xu hướng thịnh hành..

Vùng đất Nam Kỳ bắt đầu xuất hiện những ông Tây bà Đầm, với phong cách ăn mặc “cực Tây”. Những chiếc đầm hở cổ, những bộ váy “cắt vải xéo” ôm nhẹ vào cơ thể… Bên cạnh đó là những chiếc bóp đầm, giày cao gót, mỹ phẩm, nước hoa… Các quý ông thì lịch lãm trong bộ vest, áo sơ mi, giày da, mũ phớt “bảnh tỏn”.

Nam Phương Hoàng Hậu và Vua Bảo Đại

Du nhập từ giới thượng lưu trở về sau khi đi du học phương Tây

Vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương là hai đại diện tiêu biểu của trào lưu này. Trên chuyến tàu năm 1932, tiểu thư Nguyễn Hữu Thị Lan vốn là cháu ngoại của một nhà hào phú bậc nhất Nam Kỳ. Một dịp tình cờ cô và vua Bảo Đại trở về nước sau nhiều năm du học ở Pháp đã gặp được nhau…

Thời điểm này bà Lan thường ăn mặc theo lối sống lúc ở Pháp. Cái kiểu đầm suông, dùng bóp đầm, mang giày t-strap kitten heels, đội mũ chuông và sử dụng trang sức ngọc trai, vòng ngọc thạch khiến nhiều chàng say như điếu đổ.

Nam Phương hoàng hậu chuộng phong cách kiểu Tây

Vua Bảo Đại đã học tập và có kinh nghiệm phối đồ tiêu chuẩn phương Tây. Ông thuộc tầng lớp quý tộc du học từ Pháp về, quần áo của ông mang phong cách đại diện cho quý ông phương Tây. Những bộ suit kẻ phối với pocket square sang trọng. Ông còn kết hợp với đồng hồ quả quýt, thắt cà vạt, mang giày tây và dùng gậy bằng gỗ quý. Chính quyền thực dân vào cuối thế kỷ XIX đã buộc các gia đình bá hộ ở Nam Kỳ phải cho con cái đi học trường Pháp trên tỉnh, huyện…. Điều này nhằm để chúng thực hiện được kế hoạch khai hóa. Hai nhân vật nổi tiếng trong nhiều giai thoại mà người miền Nam nào cũng biết. Đó chính là “Bạch công tử” Giorgie Phước (1901 – 1950) và “Hắc công tử” Trần Trinh Huy (1900 – 1973). Một số công tửu và tiểu thư mặc dù chỉ theo học trường Tây ở Sài Gòn, nhưng cũng chịu ảnh hưởng phồn hoa đô hội và sớm tiếp thu lối du nhập từ phương Tây.

Trang phục năm 30

Những năm 30 của thế kỷ XX, trang phục trong dân gian Việt Nam vẫn còn khá bảo thủ. Các ông bà tá điền, bá hộ và hội đồng vẫn mang đậm “nề nếp” truyền thống. Trang phục họ mặc chủ yếu là áo dài cổ đứng cài khuy. Ngoài ra, họ còn mặc những bộ bà ba gấm lụa đắt tiền, mang guốc mộc, tóc búi tó. Phụ nữ thường đội khăn vuông gấp tam giác trên đầu hoặc khoác khăn trên vai. Tuy nhiên, sang đầu thập niên 40, nhiều người giàu đã bắt đầu chạy theo “mốt”. Các ông bá hộ bắt đầu tân thời, mặc áo dài mang giày hàm ếch, đội mũ phớt, hút xà gà…

Cách ăn mặc của bà Hội đồng ngày xưa

Giới nghệ sĩ trong nước đã tiếp nhận như thế nào?

Có thể nói, giai đoạn 30 – 50 khởi đầu cho sự “tây hóa” táo bạo đối với áo dài, là giai đoạn tiếp nhận Âu phục cũng như khái niệm “thời trang” ở miền Nam Việt Nam. Cuối thế kỷ XIX, áo dài vẫn là kiểu áo ngũ thân với chiếc cổ đứng, tay chẽn cổ thấp, ống tay hẹp và không thít eo.

Vào thập niên 30 của thế kỷ XX, phụ nữ miền Nam tiếp nhận các “xu hướng mới” khi áo dài Le Mur bắt đầu xuất hiện. Áo dài được đo số, thiết kế ôm nhẹ vào cơ thể, thay đổi thân con thành hò áo. Đồng thời thợ may còn biến tấu các chi tiết từ âu phục như đường nối vai, tay phồng, cổ tay loe, bèo dún hoặc cài măng-sét. Và ứng dụng các kiểu tân thời trẻ trung như tạo dáng vuông góc, trái tim, thắt nơ, cắt răng cưa, viền đăng-ten…. Thời kỳ này, ngành dệt may phát triển. Chính vì thế áo dài màu thâm, đen hoặc các sắc nhạt trơn trở nên “hợp thời” hơn những loại vải sặc sỡ, in họa tiết, caro hay chấm bi hoa lá cành… Đến năm 1934, “thời trang áo dài” của Nam Kỳ lại càng được “cải tiến”.

Nhận xét

Trang phục áo dài của phụ nữ miền Nam nói riêng và cả nước nói chung đã có sự cách tân mạnh mẽ. Tuy nhiên, giai đoạn 30 – 50 chỉ là sự “khai mạc” cho các thập niên tiếp theo của những bộ trang phục mới. Khái niệm “thời trang” ở miền Nam Việt Nam mới thực sự được “châm ngòi” vào thập niên 50 mà thôi. Nó đã mở lối cho phong cách ăn mặc của người Việt giai đoạn cận đại. Qua thời gian, kiểu dáng ngày xưa đã có những thay đổi cụ thể, thế nhưng dù có sáng tạo thì trang phục vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của dân tộc.

 

Viết một bình luận