Nhuộm răng đen – Phong tục lâu đời của người Việt xưa

Có thể nói từ thời Hùng Vương, phong tục “nhuộm răng đen” đã xuất hiện và tồn tại suốt hàng ngàn năm trong lịch sử văn hóa của người Việt. Không chỉ người Kinh, mà nó còn là phong tục cổ truyền của cộng đồng các dân tộc như Thái, Mường, Dao,….Trong cộng đồng người Kinh, tục nhuộm răng đen chỉ xuất hiện của yếu ở khu vực miền Bắc và miền Trung, còn ở miền Nam dường như không thấy dấu vết tồn tại của phong tục này.

Theo quan niệm của người xưa, hàm răng đen được xem là chuẩn mực của cái đẹp, không chỉ đối với phụ nữ mà còn cả nam giới, tuy nhiên ít hơn. Điều này cũng giải thích được tại sao trong “hàm răng đen” lại xuất hiện nhiều trong thi ca khi nói về nét đẹp của phụ nữ Việt xưa: 

Răng đen ai nhuộm cho mình
Cho duyên mình đẹp, cho tình anh say?
Được xếp thứ 4 trong 10 chuẩn mực đo nét duyên của người con gái:
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng láng hạt huyền kém thua”

Không chỉ là chuẩn mực của cái đẹp mà “nhuộm răng đen” còn là tiền đề của chuẩn mực đạo đức. Bởi, trong thời bấy giờ, người ta cho rằng, răng trắng đại diện cho loại người không tử tế: “Song tục quen đã lâu, đàn ông trắng răng thì chẳng sao, chứ đàn bà nhà tử tế bây giờ mà trắng răng thì coi cũng khí ngộ một đôi chút”.

Từng dẫn lời của một nhà báo, Phan Khôi nói về vấn đề này rằng: “Tôi từng đi đủ Trung – Bắc hai kỳ, tôi thấy những nhà thi lễ, tức là bậc thượng lưu trong xứ, thì đàn bà con gái của họ cũng đen răng, cho như thế là trang nghiêm mỹ lệ; còn trái lại, răng trắng thì cho là đồ ăn chơi đĩ thõa. Coi đó thì biết cái tục răng đen của người Nam là từ các đấng tiên dân bày ra và đã lâu đời lắm rồi, chẳng những cho là đẹp mà cũng lấy đó tỏ ra là nề nếp con nhà nữa…. Khắp nước Việt Nam, trừ xứ Nam kỳ ra, thì tôi thấy đâu đâu đàn bà con gái cũng đen răng hết, duy có những hạng vợ tây, vú, bồi, bếp gái ở với Tây thì mới hay để răng trắng mà thôi, thế thì cái tục ấy xấu tốt thế nào cũng đủ biết”.

Có thể là do lẫn lộn giữa ta và Tàu, nên nhiều người vẫn cho rằng tục “nhuộm răng đen” có nguồn gốc từ Trung Quốc, vì người Tàu muốn phân định dân tộc để dễ bề cai trị nên buộc người Việt nhuộm răng. Nhưng chính những người Trung Quốc cũng phải ngạc nhiên khi nhìn thấy những chiếc răng đen của người Việt. Đã thế, nhiều người vẫn nhập nhằng giữa tục nhuộm răng với tục ăn trầu, họ nghĩ rằng do ăn trầu nên răng bị đen mà không hề xem nhuộm răng là một phong tục cổ truyền. Tuy nhiên, ăn trầu thì răng có màu đỏ sẫm như màu máu chứ không hề có màu đen nhánh như được nhuộm. Và nhuộm răng đen chính là nét văn hóa thể hiện cái đẹp của Việt và để có được hàm răng đen huyền phải trải qua rất nhiều giai đoạn công phu, chứ không đơn giản như việc ăn trầu. 

Lịch sử tục nhuộm răng đen của người Việt

Theo nhiều tài liệu lịch sử văn hóa ghi chép lại thì tục nhuộm răng có từ thời sơ sử (cách đây khoảng 4000 năm) tức là giai đoạn hình thành nước sơ khai Văn Lang – Âu Lạc. Ví dụ như trong phần “Diện mạo văn hóa Đông Sơn” có ghi nhận: “Tục ăn trầu, nhuộm răng đen và tục xăm mình rất phổ biến”. Hoặc Trần Quốc Vượng có đề cập: “Phong tục tập quán của người Đông Sơn rất đa dạng ví như tục nhuộm răng, ăn trầu”. Đặc biệt, trong các mộ thuyền, nhiều nhà khảo cổ học Việt tìm thấy người Đông Sơn đều nhuộm răng đen. 

Đến thời Bắc thuộc, tục nhuộm răng đen vẫn được duy trì: “Nhiều phong tục tập quán tốt đẹp của thời kì Văn Lang, Âu Lạc vẫn được giữ gìn như tục nhuộm răng, ăn trầu”. Trong giai đoạn này, cùng với tục nhuộm răng thì nhiều tục lệ khác như xăm mình, búi tóc,…cũng được xem là nét văn hóa đặc trưng của người Việt, giúp định hình bản sắc so với nhiều dân tộc khác. Vậy nên, dù đã qua ngàn năm Bắc thuộc thì người Việt vẫn cố gắng gìn giữ nét văn hóa riêng.

Đến tận thế kỷ 18, trong lời hiệu triệu tướng sĩ đánh quân Thanh, Quang Trung – Nguyễn Huệ đã kêu gọi “Đánh cho để dài tóc, Đánh cho để đen răng” là ý muốn khẳng định chủ quyền dân tộc, bảo vệ phong tục cổ truyền của đất nước. Điều này góp phần chúng minh rằng, đến tận thời nhà Lê, tục nhuộm răng đen vẫn rất được coi trọng, không chỉ phổ biến ở phụ nữ mà còn cả nam giới, chẳng những tầng lớp bình dân mà quý tộc hoàng gia cũng rất ưa chuộng.

Mãi đến cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, đứng trước sự xâm lược mạnh mẽ của nền văn minh phương Tây thì Việt Nam mới dần bước vào thời kỳ biến đổi xã hội. Nhiều phụ nữ cũng bắt đầu theo xu hướng “hàm răng trắng”, có người còn cạo đi lớp răng đen mất bao công sức nhuộm nên để hòa mình vào “công cuộc cải cách xã hội”. Thậm chí, ở thời điểm đó, những ai còn để tóc củ hành, hàm răng đen, mặc quần vải áo the,…sẽ bị coi là hủ lậu, kém văn minh: “..tại các thành thị, do ảnh hưởng của làn sóng Âu hóa những năm 1930-1940, nam giới đã bắt đầu cắt tóc ngắn và thôi nhuộm răng đen”Như vậy, tục nhuộm răng đen vẫn tồn tại cho đến tận đầu thế kỷ 20 thì người Việt mới dần phá bỏ tục lệ này. 

Các công đoạn trong quá trình nhuộm răng đen

Theo phong tục của người Việt, răng chỉ được nhuộm khi đã thay xong răng sữa và đã có một số răng hàm. Và quá trình nhuộm răng được chia làm 4 công đoạn:

1. Rửa sạch răng, việc này được kéo dài khoảng 3 – 5 ngày. Sau mỗi bữa ăn, hàm răng sẽ được đánh sạch bằng vỏ cau khô có khi còn dùng bột than củi. Sau đó, xúc kỹ bằng chanh hoặc dấm vì loại này có tính axit cao. Người Huế sẽ lựa chọn ngậm nước lá cây son đem nấu (loại này nấu lên sẽ ra thứ nước chua như chanh). Trước khi ngủ phải ngậm thêm vài lát chanh mỏng. Tất cả những điều này, chủ yếu là muốn làm lớp men răng để thuốc nhuộm dễ kết bám khi nhuộm.

2. Công đoạn nhuộm răng đỏ: Dùng bột nhựa cnahs kiến, tán nhỏ, vắt thêm chanh và giữ kín trong 7 ngày để nước chanh thấm đều vào bột cánh kiến (có thể thay chanh bằng giấm gạo hoặc rượu gạo). Quét đều hỗn hợp trên lên một mảnh lá dừa hoặc lá cao, sau đó áp vào hàm răng mỗi tối khi ngủ. Việc này sẽ được lặp lại đến khi màu răng chuyển sang đỏ thẫm là được.

3. Khi răng đã lên được màu đỏ như ý muốn, người ta sẽ tiếp tục dùng bộ cánh kiến hòa với phèn đen, sau đó quét đều hỗn hợp lên lá dừa hoặc lá cau và áp lên hàm răng lúc ngủ. Lần nhuộm này chỉ cần khoảng 2 đêm là màu răng đã lên màu đen.

4. Cuối cùng là công đoạn chiết răng: Bước này sẽ giúp giữ màu răng. Người ta sẽ lấy gáo dừa già đã phơi phô để lên một con dao, sau đó đem đốt lên cho đến khi gáo dừa chảy ra một thứ nhựa màu đen sền sệt, nhựa đó sẽ được phết vào răng để răng bóng màu và lâu phai.

Giai đoạn nhuộm răng trải ra rất nhiều công đoạn phức tạp và mất nhiều thời gian cùng công sức, người nhuộm còn phải chịu nỗi đau thể xác vì những chất nhuộm hầu hết đều nồng và cay nên sẽ khiến cho môi, lưỡi, lợi bị sưng tấy, rất vất vả trong chuyện ăn uống. Bên cạnh đó, vì giữ cho màu răng lâu trôi trong quá trình nhuộm mà người nhuộm buộc phải kiêng rất nhiều thứ, chẳng hạn như đồ ăn nóng, cứng,…Phải đợi đến khi chiết răng hoàn thành thì mới dám ăn uống bình thường,

Tuy chiết răng nhưng màu sắc răng lâu ngày cũng sẽ bị phai bớt, nên để giữ mãi màu đen bóng cho răng thì người ta phải tiến hành nhuộm lại. Đàn ông thì độ 1-2 lần, còn phụ nữ thì mỗi năm mỗi nhuộm nhưng khi qua tuổi 30 thì không cần nhuộm lại nữa.

Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, nhuộm răng đen đã trở thành một trong những phong tục cổ truyền góp phần định hình bản sắc văn hóa Việt. Tuy hiện đại tục nhuộm răng hầu như là không còn tồn tại, nhưng ở một số dân tộc như người Mường ở Hòa Bình hay người Lự ở Lai Châu,…vẫn còn duy trì nét văn hóa ấy. Phong tục cổ truyền mất đi, ta không nên trách do người thay đổi mà do quan niệm mỗi thời đại là khác nhau và quan niệm về cái đẹp cũng như thế. Bởi văn hóa chẳng bao giờ bất biến, không có bất kỳ nền văn hóa nào đứng yên nhất là nền văn hóa nằm trong vòng xoay của sự giao lưu và tiếp biến. 

Viết một bình luận