Những cái cũ xưa nhất của Sài Gòn – Cái còn cái mất….khiến lòng người bùi ngùi

Sau hơn 300 năm được khai phá, vùng đất Sài Thành đã có cho mình nhiều cái “cũ nhất” và “xưa nhất”….khiến cho lòng người trở nên bùi ngùi và xúc động mỗi khi nhắc đến. 

Ngôi trường cổ nhất

Trường Trung học Phổ thông Lê Quý Đôn là một trường trung học phổ thông công lập của Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là trường trung học đầu tiên của Sài Gòn, được thành lập năm 1874 và hoàn tất vào năm 1877.

Lúc đầu trường có tên Collège Indigène (Trung học bản xứ), không lâu sau được đổi tên thành Collège Chasseloup Laubat, theo tên Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại (còn gọi là Bộ Thuộc địa) lúc bấy giờ là Hầu tước François de Chasseloup-Laubat. Ban đầu, trường chỉ nhận các học sinh người Pháp, đến đầu thế kỷ 20 thì mở rộng để nhận thêm học sinh người Việt, tuy nhiên phải có quốc tịch Pháp. 

Trường THPT Lê Quý Đôn những năm 1920 – 1929

Sau năm 1954, với dụng ý tránh gợi nhớ thời thuộc địa, trường được đổi tên là trường Jean Jacques Rousseau, dạy chủ yếu là học sinh người Việt, nhưng vẫn do người Pháp quản lý.

Đến 1967, trường được trả lại cho Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa và trở thành Trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn. Từ 1975, chính quyền Việt Nam vẫn giữ tên gọi Lê Quý Đôn cho ngôi trường này, tuy nhiên phân tách thành hai khu dành cho học sinh cấp II (trường THCS Lê Quý Đôn) và khu dành cho học sinh cấp III (trường THPT Lê Quý Đôn).

Trải qua hơn một thế kỷ, kiến trúc ban đầu của ngôi trường vẫn còn gần như nguyên vẹn, gồm bốn dãy nhà cao hai tầng ghép lại có hình chữ “khẩu”. Với lối kiến trúc mang đậm chất Tây Âu, trường được xem như một kiến trúc cổ có lịch sử văn hóa lâu đời, vẫn giữ gìn được nét truyền thống cổ kính mặc dù đã được trùng tu, sửa chữa. 

Một lớp học ở tường THPT Lê Quý Đôn những năm 1920 – 1929

Nhà máy điện xưa nhất 

Nhà đèn Chợ Quán xây dựng vào năm 1896 với mức công suất đủ cho nhu cầu sử dụng của khu Sài Gòn – Chợ Lớn và một số vùng phụ cận như Lái Thiêu, Thủ Dầu Một,….Đồng thời, cũng từ thời điểm đó mà hầu hết những con đường Sài Gòn – Chợ Lớn đều được chiếu sáng bằng điện từ “nhà đèn” Chợ Quán. Vậy nên, tên gọi này cũng được nhiều người biết đến và ghi nhớ cho đến tận ngày nay, trong khi khu nhà máy điện đã đi vào quá khứ hàng chục năm nay. 

Trung tâm vô tuyến điện Saigon & Nhà đèn Chợ Quán – Xe điện Tramway trên đường Bến Chương Dương

Nhà máy điện Chợ Quán nằm cạnh con rạch Bến Nghé, việc gần sông tạo nên những điều kiện thuận tiện hơn cho việc vận chuyển nhiên liệu, ban đầu nhà máy chạy bằng than – sau này thì chạy bằng dầu Diezen. Nhà máy tọa lạc tại số 8 Bến Hàm Tử, quận 5 (sau này là đường Võ Văn Kiệt). 

Bệnh viện cổ nhất 

Bệnh viện Chợ Quán là bệnh viện lâu đời nhất tại Sài Gòn, được xây dựng vào năm 1862, do một số nhà giàu hảo tâm người Việt đóng góp xây dựng và quản lý. Bệnh viện tọa lạc trên một khu đất rộng gần 5ha tại làng Chợ Quán, phía trước có sông Bến Nghé chảy qua (sau này được đổi tên thành kênh Tàu Hủ). 

Ngày trước, nơi đây vốn là trạm cứu thương cũ của thực dân Pháp trong đợt tấn công đồn Kỳ Hòa (năm 1861). Sau khoảng 3 năm (tức năm 1864), bệnh viện đã được chuyển giao quyền quản lý cho chính quyền thời bấy giờ. Và trong khoảng thời gian này (1862 – 1875) thì bệnh viện chỉ tiếp nhận điều trị cho những bệnh nhân hoa liễu và một số tù binh bị bệnh. 

Bắt đầu từ năm 1954 -1957, bệnh viện lại được chuyển giao cho quân đội, sử dụng ⅔ cơ sở làm nơi điều trị bệnh lao cho binh lính và được đổi tên thành Viện bài lao Ngô Quyền. Cuối năm 1957 thì trả về cho dân sự, lấy lại cái tên ban đầu là Bệnh viện Chợ Quán, tiếp nhận những bệnh nhân truyền nhiễm, phong,….đồng thời nhận thực tập sinh chuyên khoa tâm thần. 

Năm 1972, dưới sự trợ giúp của Hàn Quốc mà khu nhà chính của bệnh viện được xây dựng thành 6 tầng trên diện tích là 12,126 m2. Phải cuối năm 1973 thì công trình này mới hoàn tất và khánh thành vào ngày 2/3/1974, lấy tên là Trung Tâm Y Khoa Hàn – Việt. Đến ngày 01/5/1975, bệnh viện được giao cho Ban Y Tế Xã Hội Miền Nam thuộc Ủy Ban Quân Quản quản lý, lấy tên cũ là Bệnh viện Chợ Quán. Đến tận ngày 05/9/1989, bệnh viện lại được đổi tên thành Trung tâm Bệnh nhiệt đới trực thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh. 

Nhà hát cổ nhất 

Opera House hay còn được biết đến với cái tên là Nhà hát thành phố do kiến trúc sư người Pháp xây dựng hoàn tất vào ngày 17/1/1900. Mục đích ban đầu của nhà hát là phục vụ cho những người Tây bởi những đoàn hát của Tây nên người dân còn gọi đây là nhà hát Tây. Việc này chiếm khá nhiều ngân sách nên bị phản đối rất nhiều, vì vậy, chính quyền đã mở cửa cho người bản xứ. Và ngày 18/11/1918, lần đầu tiên người Việt tổ chức biểu diễn với màn diễn kịch pha cải lương. 

Sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, do hoàn cảnh chiến tranh, nhà hát không được tu bổ nhiều. Năm 1954, nơi đây được sử dụng làm nơi ở tạm trú cho các thường dân Pháp từ miền Bắc di cư vào Nam theo Hiệp định Genève năm 1954. Năm 1955, nhà hát được tu bổ cải tạo nhưng lại được sử dụng với chức năng tòa Trụ sở Quốc hội (sau gọi là nhà Hạ nghị viện) của chính quyền VNCH. Sau năm 1975, Nhà hát được trả lại chức năng ban đầu là tổ chức biểu diễn nghệ thuật. 

Năm 1998, nhân dịp 300 năm khai sinh Thành phố Sài Gòn, Chính quyền thành phố đã cho tu bổ lớn với phương châm bảo tồn phong cách kiến trúc ban đầu, với một số trang trí, điêu khắc nổi ở mặt tiền nhà hát như tượng nữ thần nghệ thuật, các dây hoa… được phục chế. 

Khách sạn cổ nhất 

Khách sạn Continental là một khách sạn lịch sử nổi tiếng ở Thành phố Hồ Chí Minh, nằm ở số nhà 132 – 134 đường Đồng Khởi (trước đó là đường Tự Do, dưới thời Pháp thuộc thì là đường Catinat). Khách sạn bắt đầu xây vào năm 1878, do ông Pierre Cazeau – một nhà sản xuất vật liệu xây cất và dụng cụ trong nhà. Ông Cazeau muốn mở một khách sạn sang trọng để tiếp đón các du khách từ Pháp đến Sài Gòn sau một cuộc hải hành rất dài từ “mẫu quốc”. Xây cất mất 2 năm và khách sạn Continental khánh thành năm 1880. 

Khách sạn Continental năm 1930

Năm 1911, khách sạn được bán cho Công tước De Montpensier (người xây Lầu Ông Hoàng ở Phan Thiết). Năm 1930, khách sạn được bán cho một tay trùm tội phạm từ đảo Corse tên Mathieu Francini. Francini quản trị khách sạn cho tới năm 1975. Trong những thập niên 1960 – 1970, chính phủ Sài Gòn bắt các cơ sở thương mại phải dùng bảng hiệu tiếng Việt, vì thế khách sạn có tên là “Đại Lục Lữ Quán”.

Năm 1970

Nhà thờ cổ nhất 

Nhà thờ Chợ Quán tọa lạc tại số 120 đường Trần Bình Trọng, phường 2, quận 5. Nhà thờ có kiến trúc Romanesque, đã nhiều lần bị phá hủy rồi lại được xây lại vào các năm 1727, 1733, 1793, 1862, 1882 và ngôi nhà thờ hiện nay được khánh thành vào năm 1896. Nhà thờ Chợ Quán là nhà thờ cổ nhất Thành phố Hồ Chí Minh.

Ảnh chụp Nhà Thờ Chợ Quán thời Pháp thuộc

Ngôi nhà nguyện đầu tiên của Họ đạo đã được xây vào năm 1674. Năm 1727, linh mục José Garcia dựng nhà thờ Chợ Quán. Nhưng nhà thờ này đã bị đốt phá vào năm 1731, được xây lại vào năm 1733, dài 55 mét, rộng 20 mét. Năm 1766, Giám mục Piguel đến dâng lễ tại nhà thờ Chợ Quán theo nghi thức Giám mục dành cho cả giáo dân và lương dân. Dịp này có 600 người được rửa tội và 7000 người được thêm sức. Năm 1793, người ta lại thấy họ Chợ Quán cất một nhà thờ họ với những cây cột gỗ to lớn.

Toàn cảnh Nhà Thờ Chợ Quán hiện nay vẫn giữ được nét kiến trúc xưa

Nhà thờ Chợ Quán mang trong mình lối kiến trúc Romanesque, các cánh cửa đều theo cấu trúc mái vòm cong, những cột đá to với những hoa văn độc đáo và lợp ngói đỏ. Tháp chuông nhà thờ gồm có ba tầng: tầng kéo chuông, tầng để chuông và tầng mái trên cùng với tổng cộng năm quả chuông (mỗi quả chuông đều có ghi tên người dâng cúng). Chỉ trong những dịp lễ đặc biệt, thì những quả chuông mới được kéo cùng một lúc. 

Ngôi đình cổ nhất 

Một trong những ngôi đình cổ xưa nhất của vùng đất Gia Định hay thậm chí là xưa nhất Nam Bộ có thể nhắc tên đình Thông Tây Hội. Được xây dựng vào khoảng năm 1679 – đây có thể nói là chứng tích còn nguyên vẹn nhất của thời dân Ngũ Quảng. Ban đầu, đình là của thôn Hạnh Thông – thôn khởi nguyên của Gò Vấp – mãi đến sau này mới đổi thành Thông Tây Hội (do hai thôn Hạnh Thông Tây và thôn An Hội sáp nhập). 

Đình Thông Tây Hội thờ tự một vị Thành Hoàng rất độc đáo, hai vị thần thờ ở đình là hai vị hoàng tử con của vua Lý Thái Tổ – Trong quá trình tranh đoạt ngôi vị cùng thái tử Vũ Đức, đã bị đày đi khai hoang ở vùng cực Nam Tổ quốc. Đến tận thời điểm hiện tại, ngôi đình vẫn còn giữ được khá trọn vẹn từ quy mô đến kiến trúc, kết cấu và những đặc trưng trong nghệ thuật chạm khắc Nam bộ.

Nhà văn hóa cổ nhất 

Cung Văn hóa Lao Động được các sĩ quan Pháp xây dựng trên một khu đất rộng năm 1866, ban đầu nó chỉ là một sân thể thao không chính thức, dành cho các môn điền kinh, bắn súng và đua ngựa. 

CLB Thể thao Saigon, sau năm 1975 là CLB Lao Động.

Ban đầu chỉ là nhóm các sĩ quan, binh lính Pháp, sau đó mở rộng thêm công chức, thương gia và một số ít người Việt Nam cũng bắt đầu tham gia. Năm 1896, một câu lạc bộ thể thao thượng lưu được thành lập, lấy tên là Cercle Sportif Saigonnais (Câu lạc bộ Thể thao Sài Gòn), viết tắt CSS, người Việt bình dân thường gọi tắt là Hội Xẹc. 

Vì là một địa điểm giải trí chỉ dành riêng cho giới thượng lưu nên tiêu chuẩn của Cercle Sportif Saigonnais khá cao và nghiêm ngặt, người bình dân không thể tham gia vào. Kể từ lúc thành lập đến năm 1975, nhiều chính khách, sĩ quan cao cấp, tầng lớp thượng lưu người Pháp, người Mỹ, sĩ quan VNCH và giới thượng lưu Sài Gòn, đều chọn đây làm nơi sinh hoạt chính. 

Sau năm 1975, Câu lạc bộ do Ủy ban Quân quản Thành phố Sài gòn – Gia Định quản lý, đến ngày 7 tháng 11 năm 1975, được bàn giao lại cho Liên hiệp Công đoàn Thành phố toàn quyền sử dụng. Năm 1985, cơ sở đổi tên thành Nhà Văn hóa Lao động, và đến năm 1998 là Cung Văn hoá Lao động Thành phố như ngày nay. 

Công viên lâu đời nhất 

Thảo Cầm Viên Sài Gòn được Chuẩn đô đốc Pierre-Paul de La Grandière ký nghị định cho phép xây dựng vào ngày 23 tháng 3 năm 1864. Và việc này được giao cho Louis Adolphe Germain – một bác sĩ thú y của quân đội Pháp, tiến hành mở mang 12 ha trên vùng đất hoang ở phía đông bắc rạch Thị Nghè để làm nơi nuôi thú và ươm cây.  

Bức ảnh được chụp năm 1930 – Khuôn viên lớn ở giữa hình chính là Trường đào tạo giáo viên và thông ngôn, sau này là trường Trưng Vương và Võ Trường Toản. Góc phải hình là Đền Kỷ Niệm cạnh Thảo Cầm Viên.

Để biến nơi này thành nơi nuôi trồng các loài động vật, thực vật của toàn Đông Dương; vừa để trưng bày, vừa để cung cấp cây giống cho Muséum national d’histoire naturelle (Bảo tàng quốc gia lịch sử tự nhiên) và trồng dọc theo các trục lộ ở Sài Gòn. Viên Thống đốc Nam Kỳ đã cho mời nhiều người có chuyên môn về chăm sóc, bên cạnh đó, còn nới rộng Vườn Bách Thảo và sáp nhập thêm bên bờ bắc rạch Thị Nghè. 

Cổng vào Thảo Cầm Viên Sài Gòn

Về sau này, khi chi phí quản lý hằng năm của Thảo Cầm Viên Sài Gòn đã vượt mức ngân sách mà thuộc địa cung cấp, lên đến 30.000 quan Pháp/năm thì nghị định mở cửa thường trực cho công chúng tham quan mới được ký. 

Đây là vườn thú lâu đời đứng hàng thứ tám trên thế giới và tính đến giữa năm 2020 thì công viên động thực vật này đã lỗ gần 20 tỷ đồng do đại dịch COVID-19.

Ngôi nhà xưa nhất 

Nhà nguyện Tòa tổng Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh là một ngôi nhà cổ tọa lạc trong khuôn viên tòa tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố. Đây được xem là ngôi nhà kiến trúc cổ lâu đời nhất tại thành phố này. 

Trong bối cảnh hai người đã tạo được mối thân tình, vào năm 1790, Nguyễn Ánh cho dựng một ngôi nhà bằng tre, lợp mái tranh bên hữu ngạn rạch Thị Nghè để làm nơi Giám mục Pigneau de Behaine (tức Bá Đa Lộc) ở và dạy học cho hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh. Thừa sai Lestrade gọi ngôi nhà đó là “dinh” Giám mục, mặc dù đó chỉ là ngôi nhà rất thô sơ. 

Năm 1799, Nguyễn Ánh cho làm lại dinh Giám mục bằng gỗ lợp ngói cho đến khi Giám mục Pigneau de Behaine từ trần (ngày 9 tháng 10 năm 1799) thì ngôi nhà trở thành nơi trọ cho một linh mục thừa sai tên là Liot từ năm 1799 đến 1811.

Sau đó, ngôi nhà này bị đóng cửa vì chính sách cấm đạo của triều đình Huế đến tận năm 1864. Năm 1864, để nhường đất xây dựng Thảo Cầm Viên Sài Gòn nên ngôi nhà này được đi dời về khu đất các thừa sai (hiện nay là Sở Ngoại vụ Thành phố) nằm ở đường Alexandre de Rhodes, gần dinh Độc Lập. Năm 1911, tòa Giám mục kiên cố được xây dựng (đường Nguyễn Đình Chiểu ngày nay), Giám mục Mossard cho di dời ngôi nhà gỗ lợp ngói về trong khuôn viên này để làm nhà nguyện.

Năm 2011, ngôi nhà nguyện cổ đó lần lượt xuất hiện những chỗ mục nát sụp đổ, dấu hiệu của tình trạng xuống cấp trầm trọng, xem ra không còn có thể phục chế hay gia cố nữa nên Ban Văn hoá Công giáo của tổng giáo phận cùng với Ban Quản lý Tòa Giám mục được giao nhiệm vụ nghiên cứu và thực hiện phục chế toàn bộ theo kiến trúc cổ kính như xưa.

Ngôi chùa cổ nhất 

Huê Nghiêm cổ tự tọa lạc trên đường Đặng Văn Bi (Quận Thủ Đức) là ngôi chùa cổ xưa nhất ở Sài Gòn. Chùa cũng chính là bằng chứng về tình độ kiến trúc cùng phong tục tập quán của người Việt trên vùng đất mới – mở ra một nền văn mình trên vùng đất hoang sơ cách đây hàng trăm năm. 

Chùa được thành lập từ năm 1721 do Tổ Thiệt Thuỵ – Tánh Tường (1681-1757) xây dựng. Tên gọi của chùa được lấy ý tưởng từ tên của bộ kinh Hoa Nghiêm. Ban đầu, Huê Nghiêm Cổ tự chỉ là một ngôi chùa nhỏ trên vùng đất thấp, sau đó có một vị phật tử đã hiến đất để mở rộng chùa ở vị trí như hiện nay. 

Có cảnh trí đẹp nhưng nằm ở vị trí không mấy thuận tiện, dù vậy Huê Nghiêm cổ tự vẫn là một di tích Phật giáo quan trọng, là nơi dừng chân, sống và hành đạo của nhiều vị danh tăng uyên thâm Phật pháp. Trải qua nhiều lần trùng tu, mặt tiền chùa mang dáng vẻ kiến trúc hiện đại nhưng những gian trong vẫn còn giữ nguyên nét kiến trúc cổ. 

Đường sắt đầu tiên ở thành phố 

Đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho là tuyến đường sắt đầu tiên của Việt Nam cũng là tuyến đường sắt đầu tiên của Đông Dương, được xây dựng vào năm 1881 – Tuyến đường sắt này có chiều dài hơn 70 km và tổng kinh phí gần 12 triệu franc. Việc tổ chức xây dựng tuyến đường sắt khá quy mô, khẩn trương, với hơn 11.000 lao động của cả Pháp và Việt Nam. Trong đó phía Pháp chủ yếu các sĩ quan công binh cùng và kỹ sư, còn các lao động thủ công là người Việt. 

Ga xe điện ở Bến Mỹ Tho, xa phía trước khoảng 200m là cầu Vạn Kiếp và dốc lên cầu Malabars

Thời gian đầu, tuyến xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho sử dụng đầu kéo là máy hơi nước, tốc độ chạy nhanh chậm rất thất thường, đôi khi lên dốc cầu nồi không đủ hơi khiến cho xe bị tụt xuống. Đến năm 1896, tuyến đường được đầu tư các đầu máy loại mới 220-T-SACM có công suất kéo mạnh hơn, thời gian đi hết tuyến chỉ còn khoảng 2 tiếng rưỡi, càng về sau thì thời gian càng được rút ngắn. 

Trạm xe điện chạy bằng hơi nước trên bến Bạch Đằng, đầu phố Catinat. Bên phải là bến tàu vận tải đường sông.

Tuyến Đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho hoạt động đến thập kỷ 50 của thế kỷ 20, trong thời kỳ này thì xe hơi có xu hướng phát triển mạnh và người dân cũng chuyển dần sang đi bộ vì thuận tiện hơn nhiều. Năm 1958, tuyến đường sắt này đã bị chính quyền Ngô Đình Diệm cho ngưng hoạt động, kết thúc 73 năm tồn tại. 

Người Việt đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp 

Ông Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898), tên hồi nhỏ là Trương Chánh Ký, sau này đổi tên đệm thành Trương Vĩnh Ký, hiệu Sĩ Tải; là một nhà chính trị, học giả, nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục học và khảo cứu văn hóa của Việt Nam trong thế kỷ 19. Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, triều đình nhà Nguyễn bắt buộc chấp nhận mở cửa đất nước cho tư bản thực dân Pháp xâm nhập. Trong giai đoạn mới này, người Việt cùng từng bước được tiếp xúc với nền văn minh và ngôn ngữ mới. Trương Vĩnh Ký cũng là một trong số người tiếp xúc sớm với ngôn ngữ văn hóa phương Tây và trở thành học giả có nhiều sáng tác nhất được viết bằng tiếng Pháp và tiếng Hán – Việt. 

Trương Vĩnh Ký chính là người Việt đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp và quyển Cours d’histoire annamite (Bài giảng lịch sử An Nam) đã được xuất bản với độ dày là 462 trang (bao gồm hai phần). 

Tờ báo bằng chữ Quốc Ngữ đầu tiên 

Tờ “Gia Định Báo” được cho là tờ báo đầu tiên bằng tiếng Việt mới (chữ Quốc ngữ) được ra mắt vào ngày 15 tháng 4 năm 1865 tại Sài Gòn. Đây là phương tiện truyền thông hoàn toàn mới mẻ khi đó, làm cho chữ Quốc ngữ có cơ hội phổ biến trong dân chúng.

Sau khi Trương Vĩnh Ký trở về nước vào năm 1865, Chuẩn đô đốc Roze – Thống đốc Nam Kỳ tạm thời lúc bấy giờ, đã mời ông ra làm quan. Petrus Ký từ chối và xin lập một tờ báo quốc ngữ mang tên là “Gia Định báo”. “Gia Định báo” phát hành trong phạm vi vùng chiếm đóng của thực dân Pháp lúc đó là 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ. Gia Định báo có khổ 25x32cm và giá 0,97 đồng/tờ.

Nội dung chính của Gia Định báo ban đầu gồm 2 phần: công vụ và tạp vụ. Phần công vụ chuyên về các vấn đề chính trị, pháp lý, công quyền, đăng các công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền thực dân; còn phần tạp vụ gồm các tin tức địa phương trên các lĩnh vực: kinh tế, tôn giáo, văn hóa – xã hội… Sau khi Trương Vĩnh Ký làm giám đốc, Gia Định báo được thêm các phần khảo cứu, nghị luận, gồm các bài dịch thuật, sưu tầm, khảo cứu, sáng tác thơ, văn, lịch sử, truyện cổ tích….Đến năm 1897, “Gia Định báo” chấm dứt hoạt động. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Lê Nguyễn thì một cứ liệu xác định Gia Định báo vẫn còn tồn tại đến ngày 31 tháng 12 năm 1909 (44 năm), và chính thức đình bản vào 1 tháng 1 năm 1910. 

Tờ báo đầu tiên của Phụ nữ Việt Nam 

Tờ báo “Nữ giới chung” nghĩa là “tiếng chuông của nữ giới” do bà Sương Nguyệt Anh phụ trách là tờ báo đầu tiên của phụ nữ được xuất bản tại Sài Gòn. Tờ báo ra số đầu tiên ngày 1 tháng 2 năm 1918, với chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương và nhất là đề cao vai trò phụ nữ trong xã hội. Nhưng dù ngòi bút của Sương Nguyệt Anh có khéo léo đến đâu, tầm ảnh hưởng của tờ báo này khiến mật thám Pháp e ngại. Tháng 7 năm 1918, tờ Nữ giới chung bị đình bản. 

Cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên 

“Ðại Nam quốc âm tự vị” là quyển tự vị tiếng Việt (hay còn gọi là từ điển tiếng Việt quốc ngữ Latinh) đầu tiên của Việt Nam, do người Việt Nam biên soạn. Nghiên cứu của Huỳnh Tịnh Của được đánh giá là mang tính đột phá táo bạo và cho tới tận bây giờ, “Ðại Nam quốc âm tự vị” vẫn được coi là pho sách kinh điển của những nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam.  

Cái tên ban đầu của quyển từ điển là “Đại Nam quấc âm tự vị”, in lần đầu tại Sài Gòn vào các năm 1895 và 1896, sau đó được tái bản nhiều lần. Phải sau năm 1975, sách mới được đổi tên thành “Ðại Nam quốc âm tự vị” cho đúng với chính tả thống nhất. Ấn bản mới nhất do Nhà xuất bản Trẻ in vào năm 1998 bao gồm hai tập, dày 1.210 trang, tập 1 gồm 608 trang, tập 2 gồm 602 trang. 

Người kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên 

Ông Nguyễn Trường Tộ (1828 – 1871) còn được gọi là Thầy Lân, là một danh sĩ, kiến trúc sư và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19. Ông sinh ra trong một gia đình theo Công giáo Rôma từ nhiều đời tại làng Bùi Chu (xã Hưng Trung), huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. 

Ông thông minh, học giỏi nên được truyền tụng là “Trạng Tộ”. Sau khi thôi học, ông mở trường dạy chữ Hán tại nhà, rồi được mời dạy chữ Hán trong Nhà chung Xã Đoài, tại đây, ông được Giám mục người Pháp tên là Gauthier dạy cho học tiếng Pháp và giúp ông có một số hiểu biết về các môn khoa học thường thức của phương Tây.

Cuối năm 1858, ông đi cùng Giám mục Gauthier vào Đà Nẵng tránh nạn “phân tháp”, đầu năm 1859 thì Giám mục Gauthier đưa ông sang Hương Cảng (Hồng Kông) cùng với một số nước khác…Đầu tháng 2 năm 1861, ông cùng giám mục Gauthier về nước, ông Tộ nhận làm “từ dịch” (phiên dịch các tài liệu chữ Hán) cho thực dân Pháp. 

Trong quãng thời gian đó, năm 1862 – 1864, bằng sự hiểu biết của mình, ông đã thiết kế và chỉ đạo việc xây cất tu viện Dòng Thánh Phaolô Sài Gòn (nay ở số 4 đường Tôn Đức Thắng). Đây là một công trình kiến trúc theo kiểu châu Âu có quy mô và có giá trị bền vững cho đến tận ngày nay.

Người Việt Nam đầu tiên vẽ bản đồ địa lý và đồ họa Sài Gòn theo phương pháp phương Tây 

Ông Trần Văn Học – người huyện Bình Dương, thành Gia Định, nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, là một võ tướng nhà Nguyễn và là người Việt đầu tiên vẽ bản đồ Sài Gòn – Gia Định xưa theo phương pháp phương Tây. 

Nhờ giỏi quốc ngữ và tiếng Latinh nên từ đó, ông Học ở bên Nguyễn Phúc Ánh phụ trách việc thông ngôn, dịch sách, nhất là các sách kỹ thuật Phương Tây và kiêm cả việc chế tạo hỏa xa (một thứ chiến cụ), địa lôi và các loại binh khí khác. Năm 1790, Nguyễn Phúc Ánh cho xây thành Gia Định (thành Bát Quái). Ông Học được giao việc “phác họa đường sá và phân khu phố phường” đường trong thành. 

Bản đồ Gia Định năm 1815

Trong quyển sách “Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (tập I)” có ghi nhận: “Ông được đánh giá là người rất có tài vẽ địa đồ, họa đồ kỹ thuật. Đem so sánh bản đồ Sài Gòn 1799 của Dayot với bản đồ Gia Định 1815 của Trần Văn Học thì, về kỹ thuật đồ bản như trắc địa hay tỉ lệ, bản đồ của ông Học chính xác hơn nhiều…”

Viết một bình luận