Tìm hiểu về nghề thủ công khảm xà cừ cổ xưa của Việt Nam đang dần biến mất

Chỉ bằng những vỏ sò, vỏ con trai, con ốc được thu nhặt từ những ao hồ, cửa sông,….mà qua bàn tay biến hóa đầy khéo léo của những nghệ nhân, nó đã trở thành vô vàn những sản phẩm khảm xà cừ vô cùng đẹp mắt, mang đến nét óng ánh và đầy sang trọng. Đó không chỉ là những mặt hàng mỹ nghệ tinh xảo từ khay, đĩa, bộ li quăng, bộ bàn cờ,….mà còn có những thứ nhỏ nhặt như khuyên tai, nhẫn đeo hay vòng cổ,….đều làm người ta yêu thích không nỡ buông tay. 

Khảm xà cừ hay cẩn xà cừ là một nghề thủ công lâu đời của Việt Nam. Từ xa xưa, nghề này đã phát triển và có một chỗ đứng vững chắc bởi nguồn nguyên liệu ở Việt Nam vô cùng dồi dào, đâu chính là lợi thế bởi địa thế nằm trải dài bờ biển. Làng nghề Chuông Ngọ ở phía nam thành phố Hà Nội là cái nôi của nghề khảm xà cừ Việt Nam. Trước đây, hầu hết các sản phẩm khảm trai được sử dụng trong triều đình và trong các nhà giàu, có địa vị.

Nghề khảm xà cừ ở Việt Nam đã được nhắc đến nhiều trong sử sách từ những năm của thế kỷ 3 – 5, từ thời kỳ Bắc thuộc. Nhưng theo nhiều số liệu về thần tích ghi lại thì tổ nghề vùng hạ lưu sông Hồng là Ninh Hữu Hưng, một vị tướng của vua Đinh và vua Lê. Ông được nhiều làng nghề ở Việt Nam tôn xưng là vị tổ xưa nhất của nghề mộc, nghề chạm khắc gỗ, khảm trai. Ngoài ra, theo các tài liệu ngọc phả sưu tầm, thì ông là một đại thần triều Đinh Tiên Hoàng, giúp triều đình dẹp loạn 12 sứ quân và được vua Đinh giao phụ trách quân dân 6 phủ trong việc xây dựng kinh đô Hoa Lư. Ông cũng là người Họ Ninh đầu tiên trong lịch sử của Việt Nam, các thế hệ họ Ninh hiện nay sinh sống rất đông trong các làng Nghề Truyền thống: Đồ Gỗ Mỹ Nghệ La Xuyên, Ninh Xá xã Yên Ninh, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định tôn thờ ông làm Sư Tổ của Làng Nghề. Sau này, sau khi đánh thắng quân Tống, vua Lê Đại Hành cho xây dựng lại cung thất, Ninh Hữu Hưng càng được trọng dụng. 

Khi vua đi thuyền qua vùng đất Thiết Lâm (tương ứng với các làng La Xuyên, Ninh Xá Hạ ngày nay), thấy đây là một vùng đất rất đẹp nhưng dân cư nơi đây lại vô cùng thưa thớt, chỉ có dăm nhà lác đác ven sông, đã cho Ninh Hữu Hưng ở lại đất này. Từ đó, ông định cư tại đây rồi đem cả con cháu, họ hàng đến vùng đất mới lập thành ấp lớn. Ông bỏ tiền chiêu dân, khuyến khích việc canh tác, phát triển nghề thủ công, đặc biệt là nghề mộc chạm. Các thế hệ họ Ninh sau này hiện đang sinh sống rất đông trong các làng nghề truyền thống. 

Theo một giai thoại khác cho rằng tổ nghề vùng Hà Nội sống dưới triều Lý, có tên là Trương Công Thành. Ông cũng là một người thông thạo văn võ và đã từng tham gia trong đội quân của Lý Thường Kiệt. Sau khi rời quân ngũ, ông đã về quê và nghiên cứu, tìm hiểu nghề khảm xà cừ. Vì thế, nhiều người cũng cho rằng ông chính là ông tổ của nghề khảm xà cừ làng Chuôn Ngọ.

Sang đến triều Trần thì nghề khảm xà cừ cũng khá điêu luyện, những sản phẩm làm ra đã trở nên tinh xảo hơn rất nhiều. Thậm chí, nó còn được triều đình trưng thu làm cống phẩm gửi sang tặng nhà Nguyên năm 1289 và cũng từ đó, nghề khảm phát triển mạnh cho đến tận ngày nay.

Khi những người châu Âu sang Việt Nam thì nghề khảm xà cừ của những dân địa phương đã được nhắc đến như một trong những ngành nghề nghệ thuật cao, nó đòi hỏi sự tinh vi và khéo léo. Điển hình là năm 1868, khi người Pháp đánh chiếm xong Nam Kỳ, Thống soái Pierre-Paul Marie de La Grandière (Phó đô đốc hải quân người Pháp) đã xin triều đình Huế gửi hai người thợ lành nghề khảm xà cừ vào Sài Gòn để truyền nghề cho dân nước họ. Đến năm 1877, những sản phẩm khảm ốc của Việt Nam được triều đình gửi sang Pháp dự Hội chợ Đấu xảo.

Công đoạn chế tác nên sản phẩm mỹ nghệ xà cừ:

Chất liệu xà cừ thông thường được lấy từ những chiếc vỏ con trai, con ốc để khảm nên, nên người ta còn hay gọi nó là khảm trai hoặc khảm ốc. 

Vỏ trai được ưa chuộng là loại vỏ trai của trai ngọc môi vàng (Pinctada maxima), nó thường có kích thước lớn, mặt trong có lớp xà cừ dày màu óng ánh. Làng nghề cổ truyền thì có những tên riêng cho những thứ ốc như “trai cửu khổng” (tức bào ngư), “diệp xù”, “trai cánh”, “trai Nông Cống”. Tuy nhiên những danh từ này chưa được hiệp nhất với tên khoa học mà nó chỉ là những cách gọi quen thuộc của người dân mà thôi.

Người thợ khảm trai sẽ dùng những mảnh vỏ trai nhỏ, đòi hỏi sự kỳ công mà khảm (gắn) lên các đồ vật. Các công đoạn cần phải thực hiện khá tỉ mỉ: vẽ mẫu tranh, mài, cưa, đục mảnh, khảm lên tranh rồi lại mài nhẵn và đánh bóng. 

Bước đầu tiên là chẻ vỏ thành mảnh rồi rọc theo thớ. Do bản chất cong của vỏ ốc nên khi những mảnh vỏ ốc được cắt sẽ được đem ngâm nước rồi hơ đèn nóng để uốn phẳng. Trong khi đó, bề mặt của vật dụng muốn khảm (thông thường sẽ là những bề mặt gỗ) phải khoét lõm để nhận lấy mảnh vỏ ốc. Người thợ dùng sơn ta để gắn, gắn xong thì đem mài. Trước đó phải được mài bằng giấy ráp cát to, tiếp theo là cát mịn rồi lại đánh bằng vôi bột. Bước cuối cùng là đánh bằng lá ngái rồi xoa bột gạo lên.

Khảm xà cừ còn có ở những thứ đồ trang sức, khuy áo, đũa, đồ gỗ như bàn, ghế, giường, sập, tủ, bình phong, tranh treo tường…

Khảm xà cừ thường được kết hợp với những đồ gỗ đánh bóng và sơn mài mỹ nghệ, tuy nhiên, nền của những bức xà cừ thường mang những gam màu tối của lớp sơn đen chứ không sặc sỡ hoặc có thêm nhiều màu sắc khác như nhiều thứ sản phẩm thủ công mỹ nghệ thường thấy. Bởi đơn giản, chính bản thân của chất liệu xà cừ (vỏ trai, vỏ ốc) đã tạo nên nhiều màu sắc óng ánh cho chi tiết trang trí, những sắc ánh kim lấp lánh và bắt sáng. Các họa tiết ở đồ khảm xà cừ rất đa dạng, nó phụ thuộc vào khả năng sáng tạo của người nghệ nhân, vậy nên có thể là về hoa lá, chim bướm, các danh lam thắng cảnh ở Việt Nam hay từ một tích cổ nào đó trong dân gian…..không hạn định trong bất kỳ một khuôn khổ nào về nghệ thuật.

Hiện nay, công đoạn khắc thủ công đã có những chiếc máy khắc laser thay thế cùng với những chiếc thiết bị khác hỗ trợ. Tuy nhiên, việc cẩn những mảnh xà cừ cùng với khâu hoàn thành sản phẩm thì không thể nào thiếu đi bàn tay điêu luyện của người nghệ nhân – Đây chính là yếu tố quyết định vẻ đẹp và sự tinh xảo của sản phẩm.

Tìm về với truyền thống

Ngày nay, công nghệ phát triển vượt bậc, người ta nghiên cứu ra rất nhiều thiết bị máy móc với mong muốn giúp ích cho các công đoạn sản xuất và trong nghề khảm xà cừ cũng thế. Tuy nhiên, đây là một thứ đồ mỹ nghệ cần độ cẩn thận và tinh vi cao, tất cả những chi tiết tinh xảo đòi hỏi kỹ thuật điêu luyện của người nghệ nhân, khối óc sáng tạo cùng với sự phong phú trong nghệ thuật khiến cho nhiều công đoạn bắt buộc phải được làm bằng thủ công. Những mảnh xà cừ lớn nhỏ, kích cỡ khác nhau, độ sáng cùng lấp lánh cũng khác nhau, có thể nói là làm khó cho rất nhiều người nhưng những nghệ nhân này vẫn miệt mài, vẫn cố gắng từng ngày cùng những thớ gỗ để gìn giữ hồn cốt dân tộc, tạo những tác phẩm khảm sống mãi với thời gian.

Với những xưởng khảm xà cừ truyền thống, mỗi sản phẩm đều là một tác phẩm riêng, độc đáo và không hề trùng lặp ý tưởng, nó khác hoàn toàn với những công đoạn sản xuất đại trà trong các nhà máy công nghiệp. Mỗi chiếc tủ, bàn ghế, li quăng, tranh,…được làm thủ công luôn mang những giá trị riêng, nét đặc biệt của từng tác phẩm đã phản ánh nên sự sáng tạo cùng tâm hồn người nghệ nhân. Giá trị của những tác phẩm này không thể cân đong đo đếm bằng vật chất bởi nó chính là “kết tinh” từ thành quả lao động miệt mài và tinh vi của người nghệ nhân. Nó là niềm đam mê sáng tạo, là tâm huyết với nghề.

Viết một bình luận