Ngắm nhìn những tấm kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội ngoài đời thực của vua chúa triều Nguyễn

Hình ảnh các vị vua, hoàng hậu, hoàng tử… triều Nguyễn trên các bức ảnh chụp vào đầu thế kỷ XX thường được thể hiện trong trang phục triều hội, với các “phụ kiện” như cân đai, hia, mão và các món trang sức bằng vàng, ngọc và đá quý rất độc đáo. Tùy theo chất liệu và hình dáng, những món trang sức này được gọi là kim bài, kim khánh, kim bội ngọc bội. Đó không phải là thứ trang sức thông thường của vua chúa, quý tộc hay đình thần, mà là những phục trang thể hiện danh phận, quyền uy và vinh hạnh của người phục sức. Đó còn là những kỷ vật ghi nhận công trạng hay sự ân thưởng của nhà vua đối với những người có công lao với quốc gia và triều đình.

Kim bài là những chiếc thẻ bài làm bằng vàng hình chữ nhật (8,5cm x 5cm), phía trên tạo hình tựa chiếc khánh, có lỗ để xâu dây đeo. Dưới triều Gia Long (1802 – 1820), triều đình cấp cho các quan trong Cơ Mật viện những chiếc thẻ bài bằng bạc (ngân bài) như một thứ “giấy thông hành” để họ ra vào Đại Nội. Đến năm 1834, vua Minh Mạng (1820 – 1841) bắt đầu cấp các thẻ bài bằng vàng (kim bài) có khắc 4 chữ Hán Cơ Mật đại thần thay cho các ngân bài được cấp trước đây. Với các chức quan không thuộc Cơ Mật viện, thì tùy theo chức tước và phẩm hàm, thẻ bài cấp cho họ có thể làm bằng vàng, bằng bạc mạ vàng hay bằng bạc.

Kim bài quý nhất là của nhà vua, có khắc dòng chữ Hán Thái bình thiên tử trên nền hoa văn “lưỡng long” và có gắn 10 viên kim cương, bên ngoài có 3 đường viền kết bằng ngọc trai. Ngoài ra, nhà vua còn có kim bài khắc dòng chữ Hán Đại bang duy bình và có gắn 10 viên hồng ngọc.

Kim khánh cũng được làm bằng vàng, được vua ban cho các tướng lĩnh, quan lại cao cấp vì những công lao của họ đối với triều đại và đất nước. Dưới triều Gia Long và Minh Mạng, kim khánh chỉ được thưởng cho các thành viên hoàng gia và các quan lại có điện hàm đại học sĩ (Tứ trụ).

Từ năm 1873 trở đi, vua Tự Đức (1848 – 1883) còn ban thưởng kim khánh cho các quan chức cao cấp người Pháp ở Đông Dương để tỏ tình giao hảo. Từ triều Hàm Nghi (1884 – 1885) trở về trước, kim khánh chỉ có 2 hạng: đại hạng kim khánh (kim khánh hạng lớn) và kim khánh (kim khánh hạng thường), đều làm bằng vàng 8,5 tuổi nhưng khác nhau về kích thước, trọng lượng và hoa văn trang trí. Sang triều Đồng Khánh (1885 – 1889), kim khánh được phân thành 4 hạng: đại (hạng lớn), trung (hạng vừa), thứ (hạng dưới trung bình) và tiểu (hạng nhỏ). Đến năm 1900, vua Thành Thái (1889 – 1907) quy định kim khánh chỉ có 3 hạng, đều khắc dòng chữ Hán Thành Thái sắc tứ ở mặt trước, nhưng mặt sau thì phân biệt bởi các dòng chữ Hán: Báo nghĩa thù huân (hạng nhất), Gia thiện sinh năng (hạng hai) và Lao năng khả tưởng (hạng ba). Mỗi kim khánh đều có một chùm tua kết bằng các hạt ngọc trai, mã não và cườm nhiều màu nhập từ Ấn Độ. Đặc biệt, kim khánh của triều Khải Định (1916 – 1925) thường có các chữ Hán Khải Định ân tứ hoặc Ân tứ khắc chìm và được khảm ngọc trai trong lòng chữ. Những kim khánh này được đựng trong những chiếc hộp bằng bạc, chính giữa khắc 4 chữ Hán Khải Định niên tạo và có chữ ký nghệ nhân chế tác kim khánh khắc ở phía dưới. Riêng những kim khánh vua ban cho phái nữ thì các hoa văn hình rồng được thay thế bằng hình chim phụng.

Kim bội là vật trang sức hoàng gia, chỉ xuất hiện từ năm 1889 trở đi. Kimvàng,  bộiđeo, treo. Kim bội là (vật bằng) vàng để treo, đeo. Kim bội dáng hình thuẫn hoặc hình chữ nhật cách điệu ở 4 góc. Một mặt của kim bội khắc các dòng chữ Hán ghi niên hiệu của vua như: Thành Thái niên tạo, Duy Tân niên tạo…, mặt kia khắc dòng chữ Hán Quỳnh diêu vĩnh hảo. Lúc đầu, vua Thành Thái cho đúc kim bội để thưởng cho những người có công, nhưng về sau kim bội chỉ được ban tặng cho phụ nữ, chủ yếu là các công chúa, để làm vật trang sức và thể hiện danh phận của họ. Do vậy nên dòng chữ Hán Quỳnh diêu vĩnh hảo trên kim bội được thay bằng các dòng chữ Hán: Hoàng trưởng nữ công chúa, Hoàng thứ nữ công chúa, hay Hoàng thứ nữ. Hoa văn trang trí trên kim bội thường là thuộc đề tài hoa thảo hay các dạng hồi văn chữ Thọ, chữ Công liên hoàn.

Ngọc bội có hình dáng tương tự kim khánh nhưng được làm bằng ngọc quý, chủ yếu là bằng cẩm thạch. Một mặt của ngọc bội khắc chìm dòng chữ Hán thếp vàng Thụ thiên vĩnh mệnh, mặt kia khắc niên hiệu của vị vua đang tại vị như Thiệu Trị trân bửu, Khải Định trân bửu… Thời Nguyễn sơ, ngọc bội được coi là hàm tước danh dự hay quan huy và được ban thưởng cho cả nam lẫn nữ. Từ triều Khải Định trở đi, ngọc bội chỉ còn là một thứ trang sức biểu trưng cho vương gia và quyền quý.

Việc chế tác kim bài, kim khánh, kim bội, ngọc bội dưới thời Nguyễn do Kim ngân tượng cục thực hiện. Kim ngân tượng cục là quan xưởng do vua Minh Mạng cho lập vào năm 1834 đặt dưới sự cai quản của Sở Nội tạo. Đây là nơi tập trung những người thợ kim hoàn giỏi nhất trong nước, chuyên chế tác các vật dụng bằng vàng, bạc và đá quý để phục vụ cho nhu cầu của hoàng gia và triều đình. Ngoài Kim ngân tượng cục, triều Nguyễn còn cho mở thêm hai tượng cục khác để chế tác các vật dụng có liên quan đến vàng bạc. Đó là Kim mạo tượng ty chuyên chế tạo mũ mão bằng vàng cho vua và hoàng gia và Kim tương tượng ty chuyên chế tạo các vật phẩm có thếp vàng.

Vua, hoàng gia và đình thần thường đeo kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội trong các dịp quốc lễ, triều hội hay trong những dịp nghinh tiếp quốc khách. Cùng với các bộ triều phục lộng lẫy, những kim bài, kim khánh, kim bội, ngọc bội… của triều Nguyễn là những trang sức không thể thiếu trong trang phục cung đình Huế. Những trang sức ấy đã góp phần tạo dựng nét uy phong và quyền quý của một lớp người từng nắm giữ quyền lực ở Việt Nam một thuở. Để rồi giờ đây, khi buổi hoàng kim của triều Nguyễn đã trở thành quá vãng, những món trang sức ấy lại trở thành những cổ vật vô giá và là niềm mơ ước của những nhà sưu tập có tinh thần hoài cổ.

Trong những di sản văn hóa do triều Nguyễn để lại, có một loại cổ vật có giá trị lịch sử, mỹ thuật và văn hóa rất cao, được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau, nhưng được gọi chung bằng một cái tên là thẻ bài. Đây là tên dùng để gọi một nhóm vật dụng, chữ Hán tự ghi là bài, nghĩa là “cái bảng, mảnh ván đề chữ làm dấu hiệu để yết thị; chiếc thẻ dùng để làm tin”. Từ tên chung là thẻ bài, tùy theo chất liệu làm nên chiếc thẻ mà có sự phân biệt là: kim bài (bài bằng vàng), ngân bài (bài bằng bạc), mộc bài (bài bằng gỗ), thạch bài (bài bằng đá)…; hay tùy theo công năng của từng chiếc thẻ mà gọi là: bội bài (bài để đeo), tín bài (bài làm tín vật), lệnh bài (bài giao việc)…

Những thẻ bài này là vật dụng đặc biệt, dùng để ghi công hay để phân biệt danh tính, phẩm hàm, địa vị, chức phận của các hạng quý tộc, quan binh thời Nguyễn. Theo khảo cứu của Đặng Ngọc Oánh trong bài Les distintions honorifiques annamites (B.A.V.H. No.4/1915) và của L. Sogny trong bài Les plaquettes des dignitaires et des mandarins à la Cour d’Annam (B.A.V.H. No.3/1926), thẻ bài gồm hai loại: một loại là những huân chương, huy chương để tưởng thưởng công trạng hay huy chương danh dự của triều đình ban tặng cho các bậc vương công, đại thần, binh sĩ và cả những người nước ngoài phụng sự cho triều Nguyễn. Loại kia là những “phục trang” đặc biệt để phân biệt địa vị, phẩm hàm của những hạng người khác nhau trong xã hội. Ngoài ra, còn có những chiếc thẻ bài có giá trị như giấy thông hành, dùng để ra vào nơi cung cấm, hay được dùng như giấy ủy nhiệm của quan lại cấp trên giao việc cho thuộc hạ.

Khởi thủy, vua Gia Long (1802 – 1820) cấp cho các quan trong Cơ Mật Viện một ngân bài (bài bằng bạc) để ra vào Đại Nội. Năm 1834, vua Minh Mạng (1820 – 1841) bắt đầu cho làm các thẻ bài bằng vàng, gọi là kim bài, có đề 4 chữ Hán: Cơ Mật Đại Thần để ban cho các quan lại cao cấp được sung vào Cơ Mật Viện. Tùy theo chức tước và phận sự, các thẻ bài do triều Nguyễn ban tặng cho các quan được làm bằng vàng, bằng bạc mạ vàng hay bằng bạc. Từ năm Thành Thái thứ 16 (1906) trở đi, quan lại văn võ từ hàm thất phẩm trở lên nhận thẻ bài làm bằng ngà, từ thất phẩm trở xuống nhận thẻ bài làm bằng sừng trâu. Bài của quân lính phục vụ trong Đại Nội thì làm bằng chì, sau đổi làm bằng gỗ mun.

Quý nhất trong các loại thẻ bài chính là các kim bài của các bậc đế hậu hay quý tộc cao cấp. Đây là những món đồ trang sức của vua chúa, đồng thời cũng là vật thể hiện địa vị và đẳng cấp của người sở hữu chúng. Ngoài kim bài, vua, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa và các vương tôn còn đeo kim khánhngọc khánh. Nhà vua còn dùng kim bài, kim khánhngọc khánh như vật phong tặng, quà kỷ niệm hay vật ân thưởng cho quý tộc và quan lại cao cấp trong những dịp đặc biệt.

Kim bài của các vua triều Nguyễn thường có hình chữ nhật (8,5cm x 5cm), có 4 chữ Hán Thái bình thiên tử bằng vàng chạm nỗi và nạm 10 viên kim cương. Ngoài ra còn có loại kim bài hạng hai, khắc 4 chữ Hán Đại bang duy bình bằng vàng chạm nỗi và nạm 10 hồng ngọc, xung quanh có viền hoa văn hình lưỡng long khắc chìm.

Kim khánh làm bằng vàng có đính các hạt trân châu, mã não, là thứ huy chương quan trọng bậc nhất của triều Nguyễn. Dưới triều Gia Long và Minh Mạng, kim khánh chỉ dành riêng cho các thành viên hoàng gia và các quan lại có hàm đại học sĩ. Dưới triều Thiệu Trị (1841 – 1847) và Tự Đức (1848 – 1883) kim khánh gồm hai hạng: đại kim khánhkim khánh. Từ năm 1885 triều đình đổi thành bốn hạng: đại kim khánh có đề 4 chữ Hán Báo nghĩa thù huân; trung kim khánh (hình dáng như đại kim khánh như nhẹ hơn); kim khánh có đề 4 chữ Hán Sanh thiện thượng công tiểu kim khánh có đề 4 chữ Hán Lao năng khả tưởng. Mặt sau các kim khánh thường khắc ghi niên hiệu của triều vua cho chế tác và ban tặng kim khánh. Năm Thành Thái thứ 2 (1900), triều đình bỏ hạng trung kim khánh và thiết lập hệ thống kim khánh mới gồm ba hạng: nhất hạng kim khánh, nhị hạng kim khánh tam hạng kim khánh dùng để trao trặng cho quần thần và cho cả người Pháp. Mặt sau các kim khánh này có khắc các chữ Hán Đại Nam hoàng đế sắc tứ. Đến triều Khải Định (1916 – 1925), kim khánh làm bằng vàng, có đề 4 chữ Khải Định ân tứ, được đựng trong một hộp bạc, chạm trỗ hoa văn lưỡng long triều nhật, chính giữa mặt trong có một ô hình trái xoan đề 4 chữ Hán Khải Định niên tạo và phía dưới có chữ ký nghệ nhân chế tác ở bên trái. Đối với các kim khánh ban cho phái nữ thì xung quanh các Hán tự có trang trí 2 hình chim phụng.

Ngọc khánh có hình dáng tương tự như kim khánh nhưng được làm bằng ngọc quý, chủ yếu làm bằng cẩm thạch. Mặt trước ngọc khánh thường khắc 4 chữ Hán Thụ thiên vĩnh mệnh. Mặt sau khác niên hiệu của vị vua đang trị vì vào thời điểm ngọc khánh được chế tác hay ban tặng.

Việc chế tác các kim bài và kim khánh dưới thời Nguyễn được giao cho Kim ngân tượng cục thực hiện. Kim ngân tượng cục do vua Minh Mạng cho lập vào năm 1834, trực thuộc Sở Nội tạo. Đây là nơi trưng tập các thợ thủ công tài giỏi trong cả nước về nghề kim hoàn. Họ được tuyển vào làm việc ở Kim ngân tượng cục này để chuyên chế tác các vật dụng bằng vàng và bạc, cung ứng cho nhu cầu của hoàng gia và triều đình. Ngoài Kim ngân tượng cục, triều Nguyễn còn cho mở thêm hai tượng cục khác, chuyên chế tác các vật dụng liên quan đến vàng bạc. Đó là Kim mạo tượng ty chuyên chế tạo mũ mão bằng vàng cho vua và hoàng gia và Kim tương tượng ty chuyên chế tạo các vật phẩm có thếp vàng.

Vua, hoàng hậu và các thành viên hoàng gia thường mang kim bài, kim khánh, ngọc khánh… trong các dịp thiết đại triều, trong những lễ lạt quan trọng của triều đình và trong các dịp nghinh đón quốc khách. Riêng vua Khải Định, thì ngoài kim bài, kim khánh ngọc khánh, nhà vua còn đeo thêm các huy chương như Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh… mà chính phủ Pháp trao tặng, nhất là trong các dịp lễ lạt có sự hiện diện của quan lại mẫu quốc.

165 năm sau ngày nhà Nguyễn cáo chung, phần lớn kim bài, kim khánh, ngọc khánh… của triều Nguyễn đã trở thành cổ vật trong các bảo tàng và sưu tập tư nhân ở nước ngoài. Trong một bài viết mới công bố gần đây, nhà nghiên cứu Philippe Truong (hiện sống ở Pháp) cho biết: Cách nay hai tháng, trên mạng eBay có đưa ra đấu giá một thẻ bài bằng bạc mạ vàng của An Tĩnh Công, giá bán cuối cùng lên đến 1919 euro. Ngoài ra, trong sưu tập huy chương của đại sứ Ý Antonio Benedetto Spada, hiện đang trưng bày tại bảo tàng Légion d’Honneur (Paris), có trưng bày 8 kim bài, 6 ngân bài và một số bài bằng ngà và sừng, kim khánh, ngân khánh, kim bội và kim tiền thời Nguyễn. Trong số đó, đáng chú ý nhất là kim bài khắc 4 chữ Hán Đại bang duy bình của vua Khải Định làm bằng vàng nạm 10 hồng ngọc, viền hoa văn lưỡng long và kim khánh bằng vàng có đề bốn chữ Hán Khải Định ân tứ, chứa trong một hộp bạc, khắc hoa văn lưỡng long triều nhật, chính giữa có một ô hình trái xoan đề chữ Khải Định niên tạo và chữ ký của nghệ nhân khắc ở phía dưới bên trái.

Giới khảo cứu và dân chơi cổ ngoạn trong nước hiếm khi có dịp tận mắt chiêm ngưỡng những trân bảo ấy. May mắn lắm cũng chỉ nhìn thấy hình dáng “của hiếm” trong những catalogue in ấn ở ngoại quốc mà thôi. Âu đó cũng là một thiệt thòi cho giới sưu tầm và ưa chuộng cổ vật nước nhà vậy.

 

Kim bài khắc dòng chữ Thái bình thiên tử của vua Khải Định

Hoàng tử Bảo Long mặc quốc phục, đeo kim bài và huy chương (do người Pháp tặng)
Hoàng tử Bảo Long mặc quốc phục, đeo kim bài và ngọc khánh
Vua Bảo Đại mặc quốc phục, đeo kim bài và huy chương (do người Pháp tặng)
Vua Khải Định mặc trang phục kiểu Âu châu, đội nón, đeo kim bài, ngọc khánh và huy chương (do người Pháp tặng)
Vua Thành Thái mặc long bào, đeo ngọc khánh và kim tiền
Chân dung vua Đồng Khánh mặc hoàng bào, đeo ngọc khánh, tay cầm hốt trấn khuê, ngự trên ngai vàng
Ngọc bội khắc dòng chữ Khải Định trân bửu
Kim bội khắc dòng chữ Hoàng thứ nữ công chúa

Kim bội khắc dòng chữ Hoàng thứ nữ công chúa
Kim bội khắc dòng chữ Hoàng trưởng nữ công chúa
Kim khánh khắc dòng chữ Khải Định ân tặng
Kim khánh khắc dòng chữ Báo nghĩa thù huân, triều Khải Định
Kim khánh khắc hai chữ Ân tứ, triều Đồng Khán
Kim bài khắc dòng chữ An Tĩnh công, triều Khải Định
Kim bài khắc dòng chữ Đông cung hoàng thái tử của hoàng thái tử Vĩnh Thụy

Viết một bình luận