Đôi điều tản mạn về chuyện học hành ngày xưa: “Mỗi năm hoa đào nở, lại thấy ông đồ già,…”

Từ sau thời kỳ lập quốc, đất nước ta hầu như bị chìm trong bóng tối của thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc (111 trước CN – 938 CN). Tuy nhiên, đó không phải là thời kỳ mất nước dài nhất của dân tộc ta, dân tộc ta là dân tộc có bản chất đầy bất khuất, luôn một lòng kiên trì không bao giờ bị đồng hóa trước quân thù, vẫn có thể giữ vững cho mình nền độc lập. Có lẽ, chính vì những biến động trong lịch sử mà nền văn hóa của nước ta chịu nhiều ảnh hưởng, không chỉ trong chính trị hay kinh tế, mà cả trong nếp sống và văn hóa (cả việc học hành lẫn thi cử). Và nền văn hóa của dân tộc ta chỉ mới thực sự bắt đầu khi bước vào thế kỷ X – XI dưới thời nhà Lý.

Lớp học chữ Nho ngày xưa, thầy đồ cầm roi ngồi trên, học trò ngồi dưới viết chữ.

Dưới thời vua Lý Nhân Tông, năm 1076, trường học đầu tiên của đất nước Việt Nam được mở ra mang tên là Quốc Tự Giám – Đây là một mô hình trường công duy nhất được mở ra ở kinh đô và dành cho con cái quan lại trong triều đình. Sau đó, dẫu có trải qua nhiều danh xưng khác nhau như “nhà Thái học” năm 1483 hay là “nhà Quốc học” năm 1803, nhưng chung quy về mục đích cùng chức năng của ngôi trường vẫn không thay đổi. Chủ yếu là đào tạo con cháu giai cấp quyền quý ở kinh đô, có khi là con của thường dân nhưng học hành phải thật xuất sắc mới được cho vào học, nhưng đó cũng chỉ là những trường hợp cá biệt (hay nói đúng hơn thì trường hợp ấy rất ít và rất hiếm).

Học trò luôn nghe theo mọi phép tắc chỉ bảo của người Thầy.

Trong số những bậc hiền nho, họ hầu hết đều bước thấp bước cao trong chốn quan trường đầy gập ghềnh, thấp chúc cũng là Tri huyện, cao cao thì có thể là Tổng đốc hay Thượng thư. Chỉ có số ít trong đó là đảm nhận công việc dìu dắt thế hệ con cái thường dân, họ đều là những người tài giỏi, công danh đỗ đạt nhưng không có chí làm quan, chỉ muốn yên bình với cuộc sống ẩn dật chốn đồng quê. Hoặc khác là những bậc hàn nho, đây là những tương đối có tài nhưng không được may mắn khi năm lần bảy lượt lều chõng như người lại chẳng đề danh bảng vàng. Do đó, quyết định lấy nghề dạy học làm kế sinh nhai (Tư liệu được lấy từ Dương Quảng Hàm – “Việt Nam văn học sử yếu” do Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, Sài Gòn năm 1968 – Trang 80)

Nếu nhà thầy tương đối khang trang, có sân trước sân sau, có bể cá hay ao bèo thì thầy đồ sẽ tận dụng vừa làm nhà ở kiêm lớp dạy học. Còn nếu nhà cửa chật hẹp, vợ lại là người phụ nữ “lặn lội bờ ao” thì hiển nhiên không thể dạy tại gia, mà thầy đồ sẽ quẩy một gánh sách Thánh hiền, đến xin nhờ nương náu ở một điền gian của phú hộ hay điền chủ nào đó, vừa dạy cho đám quỷ tử chủ nhà, vừa nhận thêm học trò ở làng trên xóm dưới. Dù điều kiện có thế nào đi chăng nữa, thì trong ánh nhìn của xã hội xưa, các thầy đồ luôn được xếp vào tầng lớp được kính nể với đầy trọng vọng, vậy nên mới có câu nói “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” (một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy) hay câu nói “không thầy đố mày làm nên”…..

Theo Nho giáo ngày xưa, vị trí của người thầy được đặt cao hơn cả cha mẹ, chỉ ở dưới vua.

Theo một vài tư liệu góp nhặt được từ “Việt học và việc thi chữ nho ngày trước” của tác giả Nguyễn Duy Diễn được đăng trong Nguyệt san Gió mới số 6,7 (tháng 9 và tháng 10 năm 1961), ngày xưa, ở những vùng thôn quê, khi đứa trẻ tầm 6 – 7 tuổi, cha mẹ của chúng sẽ dẫn đến nhà thầy đồ với ước muốn xin thầy nhận cháu để thụ giáo được đôi ba chữ Thánh hiền. Nếu thầy đồ ẩn náu ở nhà điền chủ thì sẽ xin ý kiến chủ nhà và thông thường thì gia chủ sẽ ưng thuận ngay vì đó được xem là vinh dự cho gia đình. Sau đó, lễ nhập môn sẽ được lựa chọn vào một ngày lành tháng tốt với mâm xôi, con gà, bầu rượu,…Và cũng chính trong cái ngày đại lễ đó, cha mẹ cậu bé sẽ được mời ở lại để nhâm nhi đôi chút cùng thầy đồ và gia chủ, sẵn tiện bàn về tướng mạo, tuổi tác hay tính tình của cậu học trò mới.

Phương châm “Tiên học lễ, hậu học văn” luôn được ứng dụng vào thực tiễn dù là xưa hay nay, vậy nên những tháng ngày đầu tiên nhập môn, những cô cậu học trò sẽ được dạy chủ yếu là cách khoanh tay, cúi đầu, chào hỏi, bẩm thưa,…theo đúng cốt cách của người học chữ. Đồng thời, họ cũng được dạy làm những công việc vặt vãnh như quét sân, quét lớp, bưng nước, mài mực cho thầy,…Người nào làm không đúng với khuôn phép, trái với cung cách ăn ở và cư xử sẽ bị phạt nặng bằng những trận đòn roi mây thâm tím thịt. Chỉ khi đạt được lễ nghĩa, người học trò mới thật sự được dạy từng con chữ Thánh hiền. Trong các trường lớp thời xưa, chỗ ngồi của thầy đồ chỉ là một tấm chiếu hoa được trải ra, trên đó bày đầy đủ những tiện nghi thời thượng như tráp, bút, nghiên mực, ống điếu,…Còn người học trò chỉ được ngồi những tấm phản, được xếp san sát nhau và đối diện với thầy. Trong một lớp học, tuổi tác của các học trò sẽ có sự chênh lệch và không đồng nhất: có thể là cậu bé tóc còn ba chỏm, cũng có thể là cậu thanh niên có vợ chuẩn bị cho kỳ thi Hương,….tất cả được quy tụ tại một lớp, thầy giảng xong nhóm này sẽ quay sang giảng cho nhóm kia. Lớp học thường đông nên thầy sẽ chỉ định cho hai anh làm trưởng trường giúp thầy coi sóc một số việc, anh trưởng nội sẽ lo công việc thuộc phạm vi lớp học và thay thầy giải quyết công việc chung, anh trưởng ngoại đảm nhận công việc từ cổng trường trở ra, có rắc rối nào cứ gặp anh, sau đó anh sẽ cùng với anh trưởng nội bàn bạc và giải quyết.

Một buổi học ngày xưa.

Thời gian học tập của những ngày xưa khác với thời buổi bây giờ nhiều lắm, mới sáng sớm tầm khoảng 6 giờ học trò đã lục đục rủ nhau đến nhà thầy trả bài, xong xuôi hết mới quay trở về ăn cơm sáng. Sau đó lại quay trở lại học vào khoảng 9 giờ và học một mạch liền cho đến tận 3 giờ chiều mới được nghỉ về nhà. Số ngày học trong tuần là đủ cả, chẳng có chuyện nghỉ thứ năm, chủ nhật hay dịp lễ như bây giờ. Thời gian nghỉ hè trong năm cũng khác lắm! Trẻ con thời xưa không được thảnh thơi như bây giờ, chỉ trừ những cậu ấm cô chiêu con nhà phú hộ mới được bảo bọc, ngoài ra bọn nhỏ đều phải dành thời gian giúp đỡ cha mẹ trong những dịp cao điểm của công việc đồng áng thì kỳ nghỉ cũng được chia làm ba ngày Tết: Tết Đoan ngọ (học trò sẽ được nghỉ khoảng một tháng để phụ giúp cha mẹ gặt lúa), Tết cơm mới (sẽ rơi vào khoảng tháng 10 và nghỉ khoảng một tháng cho vụ mùa gặt) và cuối cùng là Tết Nguyên đán (được nghỉ tận hai tháng).

Thầy giáo và học trò ngày xưa.

Dạy học nhận tiền thì mới gọi là kế sinh nhai, nên việc đền đáp công sức thầy truyền dạy chữ viết được thể hiện dưới hai hình thức chủ yếu:

  • Tiền học phí: Mỗi năm nộp cho thầy làm một hay hai lần, tất cả khoảng 4 quan tiền. Riêng chủ nhà (nơi thầy ăn ở để dạy học) thì mỗi năm may cho thầy 2 quần, 2 áo dài, ba áo cộc.
  • Tiền tết thầy vào các kỳ nghỉ: Tùy hảo tâm của cha mẹ học trò để thầy có chút tiền mua sắm và về quê thăm nhà. Thuở ấy, các học trò lớn thường kính cẩn tiễn chân thầy về, có trường hợp đưa thầy bình yên về đến quê nhà rồi học trò mới xin phép quay trở lại.

Ngoài hai khoản tiền trên, còn một khoản phát sinh khác mà chính thầy hay thân nhân đều không mong nhận được. Đó gọi là “tiền đồng môn”, tiền được đóng trong trường hợp gia đình thầy có người mất hay cũng có thể là thầy mất. Căn cứ theo danh sách của tất cả học trò (tính từ những lớp học đầu tiên) và tùy thuộc vào hoàn cảnh mỗi người mà anh trưởng nội sẽ định ra khoản đóng. Đương nhiên, những học trò cũ, dù là quan to cỡ nào, Tổng đốc hay Tuần phủ cũng không thoát khỏi. Danh sách sau khi lập sẽ được đưa cho anh trưởng ngoại thi hành. Thuở trước, việc trốn thuế Triều đình sẽ được dư luận châm chước nhưng hành vi trốn tiền đóng góp đồng môn thì hoàn toàn không thể tha thứ, đó được xem là một hành vi trái với luân lý – đồng nghĩa với vong ân bội nghĩa!

Lớp học thời Pháp, học sinh được học chữ quốc ngữ.

Dưới thời vua Minh Mạng (1820 – 1841), có thể là trong thời kỳ khó khăn, mất mùa hạn hán xảy ra khiến cho nhiều địa phương rơi vào cảnh nghèo khó, vậy nên sự chăm sóc của cha mẹ học trò dành cho thầy không được chu đáo. Chính vì lẽ đó, triều đình phải chuẩn cho địa phương trích ra những ruộng công làm “ruộng hương học”, lợi nhuận thu được từ thửa ruộng này sẽ dành nuôi thầy dạy trẻ trong làng. Sự quan tâm của triều đình cùng với sự chăm sóc của dân làng đã thể hiện được sự kính trọng đối với thầy dạy, đây được xem là niềm an ủi và tự hào cho tầng lớp sĩ phu đem sở học và đạo làm người truyền thừa cho những đời sau.

Còn đối với chương trình học, hầu như hai bộ sách căn bản là “Tứ  thư” và “Ngũ kinh” được thầy dốc lòng dạy và trò dốc tâm học tập đã kéo dài hơn một thiên niên kỷ. “Tứ thư” là bộ sách bao gồm 4 quyển: Đại Học, Luận Ngữ, Trung Dung, Mạnh Tử – Trong đó, chủ yếu ghi lại những lời nói hay, những câu trao đổi giữa người với người, những lời khuyên hữu ích của Khổng Tử và trích dẫn theo đó là những giảng giải khác của các môn sinh xuất sắc của ông. Còn “Ngũ kinh” thì bao gồm: Kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu – Đây đều là những công trình vĩ đại cùng với những san định của của Khổng Tử với mong muốn truyền thừa cho những đời sau. (Thông tin được lấy từ Nguyễn Duy Diễn – Paul Cordier – Notions d’Administration Indochinoise – Hà Nội năm 1911 – trang 160)

Một buổi học về môn Địa Lí.

Không rõ là năm nào, nhưng sau một thời gian rút kinh nghiệm về chuyện học hành và giảng dạy, các cổ nhân đã soạn ra một số sách giáo khoa cho những học trò mới nhập môn trước khi chuyên tâm nghiền ngẫm “Tứ thư” và “Ngũ kinh”. Ví dụ, những bộ sách sau:

  • Nhất Thiên Tự: là bộ sách “một nghìn chữ”, nhưng thực tế lại có hơn 1.015 câu và toàn là câu lục bát – mỗi chữ Hán sẽ kèm theo một chữ giải nghĩa bằng chữ Nôm:

“Thiên trời, Địa đất, Vân mây

Vũ mưa, Phong gió, Trú ngày, Dạ đêm….”

  • Tam Thiên Tự: Sách có tất cả 3.000 chữ, gần giống với “Nhất Thiên Tự” – nó sẽ có những cặp chữ kế tiếp nhau và bổ nghĩa cho nhau như: Thiên trời, Địa đất, Cử cất, Tồn còn, Tử con, Tôn cháu, Lục sáu, Tam ba, Gia nhà, Quốc nước, Tiền trước, Hậu sau …
  • Ngũ Thiên Tự: Sách có tất cả là 5.000 chữ, cũng được ghép theo thể lục bát như “Nhất Thiên Tự” nhưng khác ở chỗ là ghép riêng theo từng đề mục như: thiên văn, địa lý, quốc chính, luân thường…
  • Sơ học vấn tân: Đây là bộ sách tóm tắt lịch sử Trung Quốc, lịch sử nước Nam và cách đối nhân xử thế.
  • Ấu học ngũ ngôn thi: Nó như một kiểu “tản mạn”, khi nói về những lạc thú của việc học, mơ ước đỗ đạt của người học trò.
Lớp học về môn Lịch Sử.

Nếu ở thời hiện đại, trẻ con sẽ được dạy từ những điều dễ nhất đến khó nhất, hoặc đi từ những cái đơn giản rồi dần mới phức tạp thì phương pháp sư phạm ngày ấy ngay từ đầu đã đưa trẻ đến những bài học đầy hóc búa. Bởi, mục đích quan trọng nhất của việc học thời xưa chính là truyền đạt những đạo nghĩa, những cương thường đạo lý cho học trò theo đúng câu tục ngữ “Tiên học lễ, Hậu học văn”.

Còn nếu bàn về văn bài để tham gia luyện thí thì có thơ phú, kinh nghĩa (có nghĩa là bài văn giải thích một câu trích nào đó trong kinh truyện), văn sách (một dạng bài văn trả lời những hỏi ở đầu đề bài để chứng tỏ được lượng kiến thức uyên thâm của người nghĩa sĩ), chiếu (đây là ghi lại một lời vua ban bố hiệu lệnh cho dân), chế (bao gồm những lời vua phong thưởng cho những bậc công thần), biểu chính là đề cuối cùng (cũng chính là bài văn của thần dâng mong muốn dâng lên cho vua).

Dưới thời nhà Nguyễn, mỗi địa phương sẽ được bổ nhiệm một chức quan để trông coi về giáo dục: Cấp Tỉnh có Đốc học, cấp Đạo (tỉnh nhỏ) có Điển học, cấp Phủ có Giáo thụ (Cao Bá Quát từng làm Giáo thụ Phủ Quốc Oai – Sơn Tây) và cấp Huyện có Huấn đạo. Các vị này có nhiệm vụ chăm coi việc dạy học ở làng xã, song cũng đảm nhận việc tổ chức các cuộc khảo hạch để chuẩn bị cho kỳ thi Hương.

Trường Tỉnh.

Để quen với những văn bài, thường trước kỳ thi Hương một năm, quan Đốc học sẽ ra đầu bài hàng tháng và được niêm yết ở Dinh Đốc học. Học trò sẽ đến nơi và chép lấy đề bài về mà làm, sau khoảng nửa tháng thì mang lên nộp lại. Đến cuối tháng, quan Đốc học cùng những vị khoa bảng có tiếng trong tỉnh sẽ tổ chức buổi học lại cùng nhau chấm bài và tổ chức bình văn. Học trò ở hầu hết các tỉnh sẽ kéo nhau về tham dự, những bài văn sẽ được đọc lên (có thể là toàn bài, cũng có thể là trích dẫn) với tên họ cùng quê quán tác giả. Người được xướng danh dĩ nhiên là ràng rỡ với bạn bè cùng xóm giềng. Loại hình này, chủ yếu là tạo không khí sôi nổi trong chuyện học và kích thích học trò thêm cố gắng trong chuyện đèn sách.

Các buổi bình văn không chỉ được tổ chức dưới triều Nguyễn, mà thực chất đã được định ra từ những thời trước Lê – Trịnh. Trong bài viết “Cuộc bình văn trong nhà Giám” có kể lại buổi bình văn diễn ra ở trường Quốc Tử Giám ngoài Hà Nội, dưới sự chủ trì và tham dự của những quan chức như Tham tụng, Bồi tụng, quan Tri Quốc Tử giám (chức danh Hiệu trưởng ngày nay) và đông đảo học trò tại Kinh Đô (Nguồn thông tin từ quyển “Vũ Trung Tùy Bút” của tác giả Phạm Đình Hổ – Bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến – NXB Trẻ 1989 – trang 81- 82).

Mỗi năm một lần, các quan đầu tỉnh (tỷ như Tổng đốc hoặc Tuần phủ) cùng với các quan Đốc học tổ chức tại tỉnh một cuộc Khảo khóa với những số đề bài giới hạn: thi, phú, văn sách. Người đậu trong kỳ này sẽ gọi là “thầy Khóa” và kèm theo đó là những phần thưởng như miễn công tác phu đài, tạp dịch trong một năm,….Quan trọng là kỳ thi Tỉnh sẽ được mở ra vào khoảng 4 – 5 tháng trước kỳ thi Hương, và chỉ khi đỗ kỳ thi này mới được quan Đốc học lập danh sách gửi về Lễ bộ phân phối đi thi các trường thi. Những người đậu bảng đầu trong kỳ thi Tỉnh hạc sẽ được gọi là “Đầu xứ” (Thông tin lấy từ “Paul Cordier” trang 160-161 và được thu thập thêm từ truyện “Báo oán” trong tập “Vang Bóng Một Thời” của nhà văn Nguyễn Tuân)

Như thế, trong cái học ngày xưa, câu tục ngữ “Tiên học lễ, Hậu học văn” cùng với tinh thần tôn sư trọng đạo được đề cao và thực thi một cách triệt để. Song, ta vẫn có thể dễ dàng nhận ra những mặt lạc hậu trong nền học của chương trình khoa cử và triều đình nhà Nguyễn cùng nắm bắt được đó. Cho nên, vào tháng 1 âm lịch năm 1824, trong cuộc họp bàn cùng quân thần để bàn bạc về chuyện học, vua Minh Mạng đã nói rằng: “… Văn cử nghiệp chỉ câu nệ lối hủ lậu mà khoe với nhau, mỗi nhà lập riêng mỗi cách học, cao hay thấp, khoa trường lấy hay bỏ đều theo nề nếp ấy, vì lối học như thế nên nhân tài ngày càng kém dần đi. Nhưng thói quen đã lâu, đổi ngay cũng khó, vài năm sau sẽ lần lần đổi lại…” (Nguồn thông tin từ “Minh Mạng Chính Yếu” – tập III NXB Thuận Hóa – Huế năm 1994, trang 81)

Trường Làng.

Vì suy xét lợi ích sau này cho đất nước mà triều đình nhà Nguyễn đã quyết định chọn tháng 8 âm lịch năm 1835 tổ chức cuộc khảo hạch để tuyển những người trẻ tuổi, lanh lợi và thông minh; cấp lương cho học ‘các tiếng nước xa gần”. Đến tháng 6 của năm sau (tức là năm 1836) triều đình tiếp tục đề ra “chương trình dạy học trò ở quán Tứ Dịch, học tập văn tự ngoại quốc”. Mấy tháng đầu khi áp dụng chương trình, việc học sẽ được chia đều như sau: “Chữ Tây mỗi ngày 2 – 3 chữ; chữ Xiêm mỗi ngày 7- 8 chữ…” – Đến năm tháng sau khi việc học dần cải thiện và phát triển thì: “Mỗi ngày học chữ Tây 6 – 7 chữ, chữ Xiêm mỗi ngày 11 – 12 chữ…” (Thông tin được trích từ “Quốc Triều Sử Toát Yếu” – NXB Văn Học – Hà Nội 2002, tr. 259-260). Sông sông với việc học chữ, nhưng môn như toán pháp, đo lường, địa lý,…cũng được dạy xen kẽ vào chương trình học cũ.

Đến thời kỳ thực dân, khi Pháp chiếm được Nam Kỳ, họ nhận thấy rằng việc quảng bá đường lối cùng chính sách cho dân thuộc địa bằng chữ Hán ngữ là việc vô cùng khó khăn. Sở dĩ, tầng lớp cai tri (quan lại Pháp) hay tầng lớp bị trị là dân nghèo đều không hề rành chữ Hán. Vậy nên ngay từ những năm đầu 1863, Pháp đã ban hành ra quyết định số 44 ngày 31/3/1863 liên quan đến những quy định trong việc học hành tại Nam Kỳ. Theo đó, các chức quan từ Đốc học, Giáo thụ, Huấn học vẫn sẽ được giữ nguyên, nhưng đưa thêm vào chương trình giáo dục tiếng Việt viết bằng chữ La tinh (Thông tin từ nguồn: “Bulletin Officiel de l’Expédition de Cochinchine (BOEC)” – No4/1863 – trang 310-313).

Một lớp học tiểu học.

Ở thời kỳ mới, chương trình học tiếng Việt học bằng chữ La tinh (chữ Quốc ngữ) chỉ mang tính tự nguyện chứ chưa hề có tính bắt buộc. Phải tận đến tận mười năm sau, khi các nghị định của Thống đốc Nam Kỳ được ký kết vào ngày 17/3/1879 và ngày 14/6/1880, việc học ở Nam Kỳ mới được tổ chức lại trên nền học cũ, chữ Hán và chữ Quốc ngữ được quy định học song song cả hai.

Và năm 1911 khi thông tư số 86 được ban hành ngày 23/11/1911 bởi quyền Khâm sứ Trung Kỳ đã quy định – các thí sinh dự kỳ thi Hương năm 1912 phải có sự hiểu biết về chữ Quốc ngữ. Do đó, các nhân viên học chính phải thiết lập một trường dạy chữ Quốc ngữ bên cạnh trường dạy chữ Hán cho các thí sinh có mong muốn tham gia kỳ thi Hương.

Tuy nhiên, kỳ thi Hương năm 1918 đã trở thành kỳ thi cuối cùng trong lịch sử học và được thi bằng chữ Hán trên đất Việt. Cũng từ đây, kỷ nguyên chữ Quốc ngữ đã được mở ra – Nhưng cũng từ đó mà nổ ra tranh cãi giữa các nhà văn hóa, sử học bởi ý đồ cổ xúy văn hóa “trắng trợn” của thực dân Pháp. Dù ý nghĩa nào, thực tế đã đưa chữ Quốc ngữ trở thành “phương tiện truyền thông” giúp nhân dân ta tiếp thu được những tiến bộ văn hóa cùng kỹ thuật của thế giới.

Từ những năm của thập niên 1930 – 1940, chúng ta hầu như đã không còn nghe thấy tiếng ê a giảng dạy của thầy đồ cùng lũ trẻ nhỏ sau lũy tre làng. Hoàn cảnh sinh sống ngày một hiện đại đã góp phần đẩy một lớp sĩ phu của Khổng sân Trình trôi dạt ra ngoài phố thị “phồn hoa đô hội”:

“Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua…”

(Bài thơ Ông Đồ của tác giả Vũ Đình Liên)

Tranh vẽ lớp học thầy đồ ngày xưa

Đã chẳng còn những cách học của ngày xưa, cuộc sống ngày hiện đại cách học cũ cũng ngày mai một, những nghiên mực tàu đã bị thay thế bởi những chiếc bút bi, giấy đỏ ngày trước đã bị giấy trắng thế chân,…nhưng dù vậy, thì nền học cũ vẫn được xem là tinh thần “tôn sư trọng đạo”, có cũ mới có mới nên nó vẫn sống mãi với thời gian, với truyền thống đạo lý Việt Nam.

Hình ảnh thầy đồ già cậm cụi nắn nót từng nét chữ

 

Viết một bình luận