Chùa Tam Tông Miếu và những hoài niệm về lịch Tam Tông Miếu trong câu vè “Nhất Dương Chỉ – Nhị Thiên Đường – Tam Tông Miếu…”

Nhất Dương Chỉ

Nhị Thiên Đường 

Tam Tông Miếu

Tứ đổ tường 

Ngũ Vị Hương 

Lục tào xá.

Đây là à một bài đồng dao (bài vè) mà rất nhiều người miền Nam đều biết. Nhưng một điều thú vị là trong ngay trong bài dè ấy có đếm từ một đến sáu (nhất đến lục) nhưng lại liệt kê các “hạng mục” khác nhau. Trong đó “nhất dương chỉ” là một môn võ công, “Nhị Thiên Đường” là một loại dược phẩm, hay dầu gió Nhị Thiên Đường, “Tam Tông Miếu” là văn hóa phẩm, lịch Tam Tông Miếu, một tệ nạn xã hội là “Tứ đổ tường”, một loại gia vị “Ngũ vị hương” và cuối cùng là một món ăn đường phố “Lục tào xá”. Một bài vè ngắn nhưng đã kể tên tất cả những thứ nổi tiếng của miền Nam khi xưa vào những thập niên 1960-1970.

Và hai trong số sáu “thương hiệu” đặc biệt và khác biệt hơn khi nó không chỉ là “tên sản phẩm” mà còn tên một địa danh. Nếu Nhị Thiên Đường, vừa là tên một loại dầu gió, vừa là tên một chiếc cầu (gần nơi sản xuất dầu) thì “Tam tông miếu” không chỉ là tên của loại lịch mà còn là tên của một ngôi chùa làm ra lịch ấy.

Mời các bạn cùng chúng tôi tản mạn đôi điều về Tam Tông Miếu cũng như Lịch Tam Tông Miếu.

Tam tông miếu là gì? Là miếu hay chùa?

Tam Tông Miếu là cơ sở tín ngưỡng của Minh Lý đạo, và tên chính thức Minh Lý đạo gọi nơi đây là: Thánh Sở Tam Tông Miếu.

Chùa Tam Tông Miếu, đường Cao Thắng năm 1965

Minh Lý Đạo hay Đạo Minh Lý, nói tắt là Minh Lý, là một Chi trong Ngũ chi Minh đạo, có liên quan tới cả Minh Sư Đạo và Đạo Cao Đài. Đạo ra đời lấy Tam giáo làm tôn chỉ, dung hòa các tín ngưỡng, thực hiện cơ tận độ trong buổi hạ ngươn, tiếp tục và hoàn thành sứ mạng cho Chánh pháp để hướng dẫn nhơn sanh tự tu, tự độ tránh khỏi sanh tử khổ đau, thực hiện lòng từ bi, bác ái, bình đẳng xây dựng xã hội hoà bình, an lạc.

Minh Lý Đạo, trong đó, Minh có nghĩa là thông hiểu nhận biết rõ ràng. Lý là lẽ phải tuyệt đối. Minh Lý là thông hiểu đến sự tuyệt đối đạt tới lẽ phải mà thành đạo.

Đầu những năm 1920, một nhóm người ở Sài Gòn đã tập trung và cùng nghiên cứu, tìm hiểu về giáo lý của tam giáo: Thích – Lão – Nho. Trong đó, Âu Kiệt Lâm, pháp danh Minh Chánh cùng một số thân hữu mua sách từ Pháp nghiên cứu về nhân điện. 

Đến năm 1924, những người đó đã giác ngộ chơn lý của đạo và sáng lập tôn giáo lấy tên là Minh Lý đạo.

Chùa Tam Tông Miếu trên đường Cao Thắng, Sài Gòn, 1959.

Sáu vị chức sắc khai đạo Minh lý gồm có ông Âu Kiệt Lâm, pháp danh Minh Chánh; ông Nguyễn Văn Xưng, pháp danh Minh Giáo; ông Nguyễn Văn Đề, pháp danh Minh Đạo; ông Lê Văn Ngọc, pháp danh Minh Truyền; ông Nguyễn Văn Miết, pháp danh Minh Thiện; ông Võ Văn Thạnh, pháp danh Minh Trực…

Giai đoạn từ tháng 9 năm 1925 đến tháng 2 năm 1927, chùa Linh Sơn ở đường Cô Giang được Minh Lý đạo tạm mượn để làm nơi tụng kinh Sám hối vào các ngày 14 vào 30 âm lịch. Đồng thời, Để có nơi thờ các đấng thiêng liêng, các vị chức sắc Minh Lý đạo tiến hành xây dựng chùa.

Chùa Tam Tông Miếu lúc ban đầu

Ngày 3 tháng 1 năm 1926, Đức Diêu Trì Kim Mẫu ban cho chữ hiệu của chùa là “Tam Tông miếu”. Chùa được xây dựng trên phần đất do Ông Trần Kim Ký đã hiến và được bà Ba Ngỡi, bà Huỳnh Thị Ngôn cùng một số vị khác ủng hộ về tài chính.

Ngày 3/1/1926, qua huyền cơ, Đức Diêu Trì Kim Mẫu ban cho chữ hiệu của chùa là “Tam Tông miếu”. Ngài Minh Thiện, chủ trì Tam Tông Miếu, đã giải thích ý nghĩa chữ Tam Tông Miếu như sau (tóm tắt):

Chữ Tam nghĩa là ba, chữ Tông nghĩa là Tông Tổ, là gốc chánh. Miếu là đền thờ. Chỗ hiệp ba tông đem về một mối gọi là quy nguyên. Nguyên là bổn thể có một mà hiện tượng là trạng thái phát sanh ra ngoài, tỉ như một gốc cây có nhiều chi nhiều nhánh, mà chi nhánh đó không thể rời khỏi gốc rễ của nó mà tự sống riêng biệt được. Tam Tông là cái tên tổng quát gồm nhiều ý nghĩa, kể ra sau này:

Tam giáo đồng nguyên.

Tam tài nhứt thể.

Tam Ngũ hiệp nhứt hay Tam gia tương kiến.

Trong đó ý nghĩa quan trọng nhứt là Tam giáo đồng nguyên, với Tam giáo là ba tôn giáo lớn ở Đông Nam Á, tức là: Đạo Phật, Đạo Lão, Đạo Khổng.

Ngày 9 tháng 9 năm 1926, làm lễ khởi công chùa, đến ngày 2 tháng 2 năm 1927, Tam Tông miếu hoàn thành. Chùa đã qua hai đợt sửa chữa, trùng tu vào các năm 1941 và năm 1957.

Chùa Tam Tông Miếu, số 82 đường Cao Thắng

Giai đoạn năm 1941 đến năm 1965, Minh Lý đạo trong cơ khảo đạo. Chư môn sanh phải tự tu học, cơ đạo chinh nghiêng, một số đạo hữu nản lòng tu hành. Từ năm 1965 đến năm 1975, đây là thời kỳ khai cơ giáo pháp. Minh Lý đạo đã hoàn thiện về tổ chức, hình thành Hội thánh và hoàn chỉnh bộ kinh “Minh Lý chơn giải” để bổ túc cho cuốn “Minh Lý học thuyết”.

Từ sau hoà bình đến nay, Minh Lý đạo tiếp tục lập trường thuần tuý tu hành, đem đạo độ đời theo tôn chỉ dung hoà tín ngưỡng, mở rộng tình thương nhằm hoằng dương chánh pháp, phục vụ nhơn sanh đến giác ngộ, giải thoát. Hiện nay Tổng Lý Minh Lý Đạo là đạo trưởng Tường Định Lê Chơn Huệ. Trụ trì chùa Tam Tông Miếu là đạo trưởng Đại Bác.

Đường Cao Thắng, bên phải là chùa Tam Tông Miếu. Năm 1967 dưới ống kính Co Rentmeester

 Lịch Tam Tông Miếu là gì?

Lịch Tam Tông Miếu có 2 dạng: lịch block và lịch sách. Về cơ bản nó là một loại sách tử vi, trong đó tập trung chủ yếu là xem ngày tốt, xấu (vì là lịch mà!). Nội dung sách lịch Tam Tông Miếu nói về thiên văn, phong tục, ngày tốt xấu, mùa màng, khai trương…và khá nhiều vấn đề khác của con người, ở những tuổi khác nhau. Còn lịch block thì mỗi tờ lịch đều ghi ngày tốt xấu, nên và không nên làm gì.

Thuở ấy, lịch và sách lịch Tam Tông Miếu được coi như cẩm nang xem ngày của mọi người. Từ thành thị tới thôn quê, cứ đến cận Tết là nhà nhà lại sắm cho mình một cuốn lịch Tam Tông Miếu. Khi định tiến hành một sự kiện gì trọng đại (cưới xin, khai trương, động thổ…) là lại giở lịch ra xem ngày tốt xấu.

Lịch Sách Tam Tông Miếu qua các năm

Gọi là lịch Tam Tông Miếu vì lịch này do chùa Tam Tông Miếu (hiện ở số 82 Cao Thắng, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh) biên soạn và phát hành.

Dưới góc nhìn kinh doanh, lịch Tam Tông Miếu là một thương hiệu có giá trị cao, được sự nhận biết và yêu thích của đông đảo khách hàng (miền Nam) trong thời gian dài. Mấy chục năm qua, chắc là chùa Tam Tông Miếu chưa đăng ký quyền sở hữu trí tuệ đối với thương hiệu Lịch Tam Tông Miếu, tuy vậy nếu bây giờ đăng ký vẫn còn có hiệu lực nhờ vào các yếu tố lịch sử (các sách lịch cũ vẫn còn đó, bìa sách vẫn in sờ sờ hình ngôi chùa Tam Tông Miếu…)

Lịch Tam Tông Miếu có từ bao giờ?

Đạo Minh Lý ra đời từ 1924. Ngôi chùa Tam Tông Miếu như hiện giờ được xây dựng từ 1957, hoàn thành năm 1960. Còn theo một số thông tin thì quyển lịch Tam Tông Miếu đầu tiên ra đời năm 1947.

Lịch sách Tam Tông Miếu năm 1954
Lịch sách Tam Tông Miếu năm 1969
Lịch sách Tam Tông Miếu năm 1962

Nếu kể từ năm 1947 thì đến 1975 đã có 29 bộ lịch Tam Tông Miếu ra đời, một tuổi thọ khá dài cho một sản phẩm văn hóa. 

Từ sau 1975 lịch Tam Tông Miếu không còn xuất bản nữa. Lịch Tam Tông Miếu không còn ở Việt Nam, nhưng lại còn ở… Mỹ. Một môn sinh chùa Tam Tông Miếu là ông Nhựt Thanh – từng tham gia biên soạn lịch Tam Tông miếu trước 1975 – đã rời khỏi Việt Nam từ tháng 4/1975 (ông này đi cùng chuyến bay sang Đài Loan với Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn văn Thiệu). Ông Nhựt Thanh là nhà tử vi, đã biên soạn lịch sách tử vi, lúc đầu cho chùa Khánh Anh, rồi sau đó bộ lịch – bao gồm lịch block và lịch sách – được mang tên là lịch Tam Tông Miếu – Nhựt Thanh. Bộ lịch này được phát hành hàng năm, cho đến năm 2017

Lời ông Nhựt Thanh kể như sau:

“Đầu tiên lịch sách và lịch block Tam Tông Miếu có mặt tại Pháp vào năm 1976 và được Hàn Lâm Viện tại Pháp công nhận… Năm đó, ông Trần Văn Bá, chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên tại Pháp nhờ một nhóm bạn kiến trúc sư bỏ dấu tiếng Việt bằng tay vào bản thảo đầu tiên đánh bằng máy đánh chữ tiếng Anh cho Bộ Lịch Tam Miếu và đem in, bộ lịch Tam Tông Miếu đầu tiên đã được ra đời tại hải ngoại từ đó.

Năm 1979, Lịch Tam Tông Miếu đầu tiên in tại Mỹ và ra mắt cộng đồng người Việt tại đây. Cộng đồng người Việt phát triển tới đâu thì lịch Tam Tông Miếu có mặt tới đó.”

Ai là người đầu tiên biên soạn lịch Tam Tông Miếu?

Dĩ nhiên là chùa Tam Tông Miếu rồi, nhưng cụ thể là AI?

Theo lời kể của ông Nhựt Thanh:

“Thuở bé lúc 1 tuổi tôi là trẻ mồ côi được mang về ở trong chùa, và tôi được học ngành thiên văn học để làm lịch số. Năm 1968, tôi 18 tuổi, bắt đầu đặt bút viết cho bộ lịch số Tam Tông Miếu. Đây là bộ Lịch làm theo triết lý tốt đẹp của cuộc sống, theo vũ trụ quan. Lúc đó, tôi chỉ được viết các câu dạy 30 ngày đầu theo đạo Phật, 30 ngày theo đạo Lão và 30 ngày sau viết theo đạo Khổng.”

Như vậy, ông Nhựt Thanh chỉ bắt đầu tham gia biên soạn lịch Tam Tông Miếu từ năm 1968, 21 năm sau khi quyển lịch đầu tiên ra đời. Còn trước đó thì sao?

Theo sách “Ngài Minh Thiện – Cuộc đời và đạo nghiệp” do chùa Tam Tông Miếu ấn tống năm 2010 thì:

“Ngài Minh Thiện đem hết sức lực, tâm trí, ngày đêm nghiên cứu, học hỏi các kinh sách như bói toán, bốc dịch, tướng số, thiên văn, địa lý, y học. Môn nào cũng nhờ thầy chuyên môn chỉ dẫn tận tường, chớ không chịu đọc sách qua loa.

Do đó lịch Tam Tông Miếu được nghiên cứu tinh vi, nên được khắp nước Việt Nam tin tưởng và ưa chuộng.”

Cũng cần nói thêm là ngài Minh Thiện – chủ trì Tam Tông Miếu – là người am hiểu Pháp và Hán văn nên có năng lực tiếp thu các kiến thức nói trên rất tốt.

Do vậy, có thể nhận định rằng chính ngài Minh Thiện là trưởng ban biên tập, cùng với các cộng sự của mình ở chùa Tam Tông Miếu là những người đầu tiên nghĩ ra và biên soạn bộ lịch Tam Tông Miếu này.

Tiếc thay cho một sản phẩm thương hiệu Việt rất nổi tiếng đã không còn tồn tại ở Việt Nam nữa, dù rằng bây giờ những người lớn tuổi ở miền Nam vẫn còn nhớ và biết tới thương hiệu này, nhất là vẫn còn được lưu truyền qua lời ca Nhất Dương Chỉ – Nhị Thiên Đường – Tam Tông Miếu…

Viết một bình luận