Bí ẩn Kim ấn “Hoàng Đế Chi Bảo” – Truyền Quốc Bảo Tỷ được vua Bảo Đại trao lại cho Cách mạng ngày thoái vị

Dưới chế độ Quân chủ, ấn và kiếm là những Bảo vật tượng trưng cho Quyền lực tối thượng của bậc Thiên tử. Ấn đúc bằng vàng, ngọc được gọi chung là Bảo tỷ. Dưới thời Nguyễn, Bảo tỷ có hơn 20 chiếc, mỗi chiếc đều có công năng và ý nghĩa riêng.

Trên nền đài Lầu Ngũ Phụng cửa Ngọ Môn – Kinh thành Huế vào chiều ngày 30/8/1945, trước mặt hơn 5 vạn người dân xứ Huế, Hoàng đế Bảo Đại – Vị Hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn đã trao lại Kim ấn “Hoàng Đế Chi Bảo” và Bảo kiếm cho Cách mạng.

Bộ ấn kiếm trên có thể xem là bộ ấn kiếm quý giá nhất của triều Nguyễn, đáng lý ra phải thuộc về sở hữu của nhân dân Việt Nam. Nhưng giờ đây, Bảo vật lại đang nằm trong kho của một nhà sưu tập nào đó nơi đất khách quê người…

Lễ trao trả ấn tín và kiếm cho vua Bảo Đại. Ảnh Lịch Sử Việt Nam.

Theo sách Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, triều Nguyễn có những bảo tỷ như Ấn Ngự tiền chi bảo dùng để đóng vào các chỉ dụ bình thường.

Ấn Văn Lí Mật Sát dùng để đóng vào các chỉ dụ, sớ chương đã có tẩy xóa hoặc thêm vào những chỗ giáp nhau của 2 tờ văn bản quan trọng.

Ấn Sắc Mệnh Chi Bảo dùng trong việc ban cấp sắc mệnh, sắc cáo cho các quan văn võ và chiếu văn phong tặng các thần, người.

Ấn Chế Cáo Chi Bảo dùng đóng các chiếu văn bảo và ban cấp chiếu lệnh sai phái quan viên…

Tiến sĩ Phan Thanh Hải – Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Thừa Thiên Huế cho biết, trong số 20 chiếc Bảo tỷ đúc giai đoạn đầu thời Nguyễn, có 6 chiếc đúc thời Gia Long và 14 chiếc đúc dưới thời Minh Mạng.

“Chiếc ấn quan trọng nhất, biểu tượng cho Hoàng đế là ấn Hoàng Đế Chi Bảo. Đây chính là chiếc ấn mà vị vua cuối cùng của triều Nguyễn đã trao cho đại diện chính quyền Cách mạng tại quảng trường Ngọ Môn vào ngày 30/8/1945.”

Mặt trên Hoàng Đế Chi Bảo.

Ấn Hoàng Đế Chi Bảo được đúc bằng vàng ròng vào ngày 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4 tức ngày 15/3/1823. Đây là Bảo ấn lớn và đẹp nhất của triều Nguyễn.

Ấn đúc hình vuông, quai ấn là một con rồng uốn khúc, đầu ngẩng cao, mắt nhìn thẳng về phía trước.

Đỉnh đầu rồng khắc hình chữ Vương, vây lưng dựng đứng, đuôi cũng dựng đứng, vây đuôi uốn cong về phía trước. 4 chân rồng đúc rõ 5 móng, tư thế chống chân xuống mặt ấn rất vững vàng.

Mặt dưới của ấn khắc 4 chữ triện Hoàng Đế Chi Bảo. Mặt trên của ấn, phía 2 bên quai khắc nổi 2 dòng chữ: Minh Mạng Tứ Niên Nhị Nguyệt Sơ Tứ Nhật Cát Thời Chú Tạo – Đúc vào giờ tốt ngày mồng 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4.

Dòng chữ thứ 2 là: Thập Thành Hoàng Kim Trọng Nhị Bách Thập Lạng Cửu Tiền Nhị Phân – Đúc bằng vàng, trọng lượng 280 lạng 9 chỉ 2 phân. Nếu tính 27 lượng tương đương 1kg, thì chiếc ấn này nặng khoảng 10,7kg.

Theo quy định của triều Nguyễn, ấn Hoàng Đế Chi Bảo được dùng khi “Gặp khánh tiết ban ơn, đại xá thiên hạ cũng là các cáo dụ thân huân, đi tuần thú các nơi để xem xét các địa phương, mọi điển lễ long trọng ấy và ban sắc, thư cho ngoại quốc,…”

Như vậy, kể từ khi đúc ra đến khi trao cho chính quyền Cách mạng, ấn Hoàng Đế Chi Bảo đã có 122 năm tuổi.

Khác với chiếc ấn trên, thanh kiếm đi kèm với nó lại có niên đại khá muộn khi được làm từ thời vua Khải Định.

Theo ảnh tư liệu, thanh bảo kiếm trên được làm theo kiểu trường kiếm. Toàn bộ chiều dài, kể cả vỏ kiếm khoảng hơn một thước tây. Chuôi kiếm nạm ngọc, lưỡi kiếm có lẽ bằng thép tốt, vỏ kiếm bằng vàng.

Trên nền đài lầu Ngũ Phụng cửa Ngọ Môn – Kinh thành Huế vào chiều ngày 30/8/1945, trước mặt hơn 5 vạn người dân xứ Huế, Hoàng đế Bảo Đại – Vị Hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn đã trao bộ ấn Hoàng Đế Chi Bảo và kiếm cho chính quyền Cách mạng.

Thay mặt chính phủ Cách mạng, ông Trần Huy Liệu đã tiếp nhận ấn kiếm và gắn huy hiệu công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho Cựu hoàng Bảo Đại.

Ngay ngày hôm sau, bộ ấn kiếm được đem ra Hà Nội để kịp dự lễ độc lập vào ngày 2/9/1945. Khi thực dân Pháp quay trở lại Việt Nam vào tháng 9/1945 và đưa quân ra thủ đô vào cuối năm 1946.

Đơn vị làm nhiệm vụ cất giữ bộ ấn kiếm trên đã đem giấu chúng vào vách một ngôi chùa cổ ở ngoại thành Hà Nội, trước khi rút lên Việt Bắc. Nhưng trớ trêu thay, sau đó, khi lính Pháp đập phá chùa để lấy gạch xây đồn bốt, chúng lại phát hiện ra bộ ấn kiếm trên.

Ngày 3/3/1952, tại Đà Lạt, Pháp đã tổ chức một buổi lễ khá long trọng để trao lại ấn kiếm cho Cựu hoàng Bảo Đại – Lúc này đang là Quốc Trưởng.

Năm 1953, để bảo vệ cho bộ ấn kiếm trên được an toàn, Cựu hoàng Bảo Đại đã ủy quyền cho bà Mộng Điệp mang sang Pháp, trao cho Hoàng hậu Nam Phương và Hoàng Thái tử Bảo Long.

“Sau khi bà Nam Phương mất năm 1963, bộ ấn kiếm này do Bảo Long quản lý và ông đã gửi chúng tại két sắt của Ngân hàng Châu Âu – Union des Banques Européennes.

Cũng vì bộ ấn kiếm này mà hai cha con Bảo Đại – Bảo Long đã kiện cáo nhau rất phức tạp để giành quyền sở hữu. Kết quả là tòa án đã xử cho Bảo Đại được giữ chiếc ấn còn con trai ông được giữ chiếc kiếm.

Nghe nói rằng, gần đây vì túng tiền nên vị Hoàng Thái tử Bảo Long đã bán mất cây kiếm trên. Còn chiếc ấn, sau khi Bảo Đại qua đời, nó đã lọt vào tay bà đầm Monique Baudot – Bà vợ Tây mà Cựu hoàng Bảo Đại cưới năm 1982” – Tài liệu nghiên cứu của Tiến sĩ Phan Thanh Hải cho biết.

Bộ ấn kiếm cuối cùng và cũng có thể xem là bộ ấn kiếm quý giá nhất của triều Nguyễn lẽ đúng ra phải thuộc về quyền sở hữu của nhân dân Việt Nam. Thế nhưng, trên thực tế, nó cùng với vô số các bảo vật khác vẫn đang lưu lạc xứ người, chờ cơ hội để quay về cố hương.

Ngoài ra, không chỉ có bộ ấn kiếm trên mà còn vô số những Bảo vật của người Việt Nam hiện nay vẫn đang được trưng bày công khai tại các Bảo tàng Quốc gia và tư nhân tại Pháp, Nhật, Mỹ,…

Chiến tranh đã qua nhiều năm, nhưng chúng ta không được phép quên rằng, rất nhiều tài sản vô giá của cha ông chúng ta đã bị cưỡng đoạt! Còn chuyện làm sao để “Châu về Hợp Phố”. Để các tài sản đó trở về với Tổ quốc, với người Việt Nam thì hẳn còn là một câu chuyện rất dài…

Viết một bình luận